Tư tưởng triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm

06:44 CH @ Thứ Hai - 15 Tháng Giêng, 2007

Cách đây 511 năm, xã Lý học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, nơi được gọi là "địa linh nhân kiệt" đã sinh ra cho đất nước ta một nhà lý học nổi tiếng, một nhà tiên tri giỏi, một nhà thơ lớn với những đóng góp qúy báu cho nền thi ca Việt Nam thời kỳ trung thế kỷ đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).

Trong di sản của ông còn sót lại đến ngày nay, chúng ta mới chỉ mới từng bước khám phá từng phần những tư tưởng uyên thâm xen kẽ giữa những vần thơ tức sự, cảm hứng, những bài vịnh và văn bia. Những quan điểm triết học trong tư tưởng của ông đang ngày càng đòi hỏi phải vận dụng những phương pháp khoa học để minh chứng cho một điều là, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đặt và giải quyết một số vấn đề triết học không kém phần bác học so với các bậc hiền triết trên thế giới cùng thời, tức là những vấn đề quan trọng của khoa học lịch sử triết học.

Trong đó, một vấn đề đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc là triết học tự nhiên trong tư tưởng của ông. Do tính đặc thù trong những di sản tinh thần mà Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại là các tư tưởng được ông trình bày trong đó không theo một hệ thống chuyên đề triết học riêng biệt, và mặt khác, những học trò nổi tiếng của ông như Giác Hải, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh… cũng không ghi lại dù chỉ là những cuộc đối thoại triết học ngắn giữa thầy và trò, cho nên từ trước tới nay, đa phần các công trình nghiên cứu về tư tưởng của ông chỉ dừng lại ở việc hệ thống hóa các quan điểm triết học trên hai phương diện cơ bản là "đạo Trời" và "đạo Người". Theo chúng tôi, việc nghiên cứu lịch sử tứ tưởng Việt Nam trước hết phải dựa vào nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của khoa học lịch sử triết học là phương pháp so sánh để từng bước làm rõ đặc thù tư tưởng của dân tộc tức là để xem các quan điểm triết học của các nhà tư tưởng nước ta đã kế thừa và có những phát kiến gì mới so với các học thuyết du nhập. Đối với trường hợp của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng triết học của ông có phải chỉ giới hạn ở nội hàm của hai khái niệm "đao Trời" và "đạo Người" hay không, đó là vấn đề phải được làm rõ hơn.

Xuất phát từ ý tưởng đó, chúng tôi nếu nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Khiêm mà chỉ dừng lại ở việc hệ thống các quan điểm triết học trên hai phương diện cơ bản là "đạo Trời” và "đạo Người” thì đã vô tình bỏ qua những đóng góp quan trọng của ông cho tư tưởng Việt Nam. Bởi vì, xét về toàn thể, hai phạm trù triết học đó không thể hiện một cách đầy đủ toàn bộ tư tưởng triết học của ông. Riêng khái niệm "đạo Trời" đã làm chúng ta liên tưởng ông là một nhà nho "thuần tuý" với những tư tưởng chính trị - đạo đức kết hợp với tư tưởng "mệnh trời" và "lý số” của Khổng giáo. Nếu mạnh dạn xem xét rộng hơn, sâu thêm "đạo Trời" trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm - một hiền sĩ không chỉ chịu ảnh hưởng của tam giáo (Nho, Phật và Lão), mà còn cả ý thức bản địa, chúng ta thấy nảy ra một số vấn đề: bản thể luận trong thế giới quan của ông có nhiều điểm khác với học thuyết của các bậc tiên nho, việc vận dụng thành quả nhận thức thế giới vi mô và thế giới vĩ mô vào nhận thức các quan hệ xã hội, một đặc điểm của trào lưu triết học tự nhiên đã được ông thực hiên một cách nhuần nhuyễn. Đó là những vấn đề đang thu hút sư quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến tư tưởng triết học tự nhiên của ông.

Xét một cách tổng thể? Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc các học thuyết Tống Nho, Đạo Phật và Lão Trang. Bản thể luận mà ông đề cập đến khi trình bày các quan điểm triết học của mình đã vượt ra ngoài phạm vi của "đạo Trời". Tuy nhiên, chúng ta không nên so sánh bản thể luận đó với bản thể luận của các nhà triết học tự nhiên thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu như Lêôna Đơ Vanhxi, Nicôlai Côpécníc… bởi họ đều là những nhà khoa học tự nhiên. Về sau, Seling, nhờ nghiên cứu các học thuyết triết học của Cantơ và Phíchtơ mà phát triển thành triết học tự nhiên của riêng mình với những nhận định mang tính gợi mở cho khoa học hiện đại về sự thống nhất và phát triển của tự nhiên, về sự hình thành thế giới hữu cơ từ thế giới vô cơ… Chúng ta chỉ có thể làm được một việc tạm gọi là phù hợp với phương pháp luận nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam là tiếp cận hệ thống các quan điểm triết họe của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong di sản thơ văn còn lại đến ngày nay.

Nghiên cứu tư tưởng triết học của bất kỳ nhà tư tưởng nào cũng đòi hỏi phải có cách tiếp cận nhất định, hay nói cách khác, phải cố phương pháp nghiên cứu thích hợp mới chỉ ra được tư tưởng triết học đặc thù của họ. Tư tưởng triết học được trình bày trong thơ ca Nguyễn Bỉnh Khiêm rất phức tạp, bởi ngoài những lập luân của những luận thuyết, những quan điểm triết học, còn có cả hình thức và nội dung nghệ thuật trong đó. Xét trên bình diện nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học, dường như các phương diện đó không liên quan đến nhau nhiều, song trên thực tế, chúng lại có sức mạnh thuyết phục rất lớn, đặc biệt là đối với nước ta vào thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, trình độ phát triển tư duy lý luận còn thấp. Nguyễn Huệ Chi và Tạ Ngọc Liễn đã có những nhận xét mà theo chúng tôi, chưa được thoả đáng về mối quan hệ giữa thơ ca và tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "ở con người thi nhân này đã có một bộ phận thơ ca rời bỏ những cảm xúc thẩm mỹ về cái cụ thể để hướng tới một cái gì trừu tượng hơn, mang tính khái niệm thuần tuý, hoặc tập trung cảm hửng vào những mối liên tưởng siêu hình". Chúng tôi cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là nhà thơ triết lý cuộc sống, mà còn là nhà thơ triết học bởi cảm xúc thấm mỹ của ông về cái cụ thể là trực quan sinh động ở mức độ cao về cái cụ thể đó.

Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc triết học tự nhiên của Kinh Dịch. Bất kỳ ai đã làm quen với các khái niệm cơ bản của Kinh Dịch cũng đều hiểu được việc ông vận dụng một cách tài tình các nguyên lý của Dịch vào thơ văn của mình như thế nào. Kinh Dịch không chỉ là một cuốn sách triết học cổ nhất của Trung Hoa, mà còn là một cuốn bách khoa kinh nghiệm cho nghề nông của nước này đó là sự phát hiện ra các hiện tượng, các quy luật của tự nhiên được kiểm nghiệm qua mấy nghìn năm và từ đó, người Trung Hoa tiến hành biểu tượng hóa, mô hình hóa các hiện tượng, các quy luật của tự nhiên bằng các vạch liền và đứt (vạch liền gọi là hào dương, vạch đứt gọi là hào âm). Các vạch này liên kết với nhau theo tổ hợp ba vạch, tạo thành tám quẻ (bát quái), một lần nữa, các quẻ này lại liên kết với nhau theo những phương án có thể để tạo thành 64 quẻ kép với sự tham gia của 384 hào. Theo người Trung Hoa cổ đại, 64 quẻ này là tổng hợp hết thảy các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và từ đó, có thể suy diễn được sang lĩnh vực của xã hội. Trong di sản tinh thần cổ đại của Trung Hoa, Kinh Dịch không chỉ là tác phẩm triết học thành vàn đầu tiên, mà còn là công trình khoa học dựa trên kinh nghiệm cuộc sống. Nó đóng vai trò làm lịch, trợ giúp nghề nông của người Trung Hoa cổ đại khi sự can thiệp của con người vào các quá trình của tự nhiên chừa thô bạo như hiện nay, tức là sự can thiệp dẫn đến những thay đổi bất thường các quá trình vật lý của sinh quyển.

Nguyễn Bỉnh Khiêm vận đụng các nguyên lý của Kinh Dịch để phát biểu thế giới quan của mình khá nhiều lần trong các bài thơ về các hiện tượng tự nhiên, về thế sự và thời cục diễn ra trong xã hội. Thơ của ông thường biểu hiện sự mô phỏng các quy luật tự nhiên trong đời sống xã hội. Chẳng hạn trong bài "Cảm hứng" dài 300 câu, ông mô tả quá trình sinh thành của vũ trụ và sự hình thành các nguyên tắc của đời sống xã hội trên cơ sở các quy luật tất yếu của tự nhiên như sau: "Thái cực khi mới bắt đầu phân chia thì tam tài đã xác định được vị trí của mình. Nhẹ và trong bay lên tạo thành trời, nặng và đục lắng xuống thành đất, ở giữa kết tụ lại thành người. Cả ba bộ phận ấy] đều xuất phát từ một khí”. Đây là cách trình bày theo quan điểm triết học tự nhiên, nhưng hoàn toàn không phải là của Nguyễn Bỉnh Khiêm như một số tác giả nhận định, mà là quan điểm vũ trụ luận truyền thống của Trung Hoa và mang tính "tiêu chuẩn". Song, công lao của Nguyên Bỉnh Khiêm trong việc sử dụng quan điểm đó để truy cứu các hiện tượng xã hội theo tinh thần của triết học tự nhiên thì không ai có thể phủ nhận được. Đoạn thơ tiếp theo cho chúng ta thấy rõ điều đó: "Bậc thánh nhân theo khuôn phép của trời, muôn đời ập nên kỷ cương của loài người, noi theo được cái tất đẹp của ngũ điển, trình bày được cái đầy đủ của cửu trù. Vua và tôi phải có nghĩa với nhau, cha và con cái tình thân là tột độ, chồng và vợ kẻ xướng có người tuỳ, anh và em người cưng thì có người đễ, chơi với bạn thì giữ vững điều tín".

Như vậy, nếu tam tài xuất phát từ khí thì bậc thánh nhân cũng theo đó mà đặt ra ngũ luân cho quan hệ xã hội. Vũ trụ không ngừng vận động, biên đổi do hai thế lực âm dương tác động với nhau, phát triển đến cùng cực thì quay lại cái điểm xuất phát theo nguyên lý của thái cực. Quan hệ xã hội cũng vậy, thời cục có lúc lên lúc xuống, đời này qua đời khác không giống nhau về hoàn cảnh cụ thể. nhưng vàn phải theo các nguyên tắc cương thường mà thánh nhân đặt ra, có như vậy, phong hóa và trật tự xã hối mới được duy trì và ồn định.

Một đặc điểm nữa trong quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm là so sánh tính tương đồng về mặt cấu trúc cũng như đặc tính của tiểu vũ trụ (vi mô) và đại vũ trụ (vi mô). Chúng ta xem xét vấn đề này một cách cụ thể trong bài "Kê noãn" của ông: "Trứng gà không tròn cũng không vuông, ấy thế mà bao bọc cả trời đất trong đó. Chất thái tố trang ở ngoài có hai lần trắng, chất đan biếm chứa ở trong có một điểm vàng. Thái cực chưa chia, vẫn còn hỗn độn. Hai khí âm dương hợp lại mới nở ra. Khi đã thành lông cánh sẽ bay bổng lên trời mây, hóa làm sao Kim Kê giúp vầng thái dương.

Quả trứng gà được con mắt quan sát của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tiểu vũ trụ, nó cũng trải qua một quá trình khép kín, từ khi hình thành đến phát triển. Đây cũng là một quá trình tuân theo nguyên lý của dịch học về sự vô thuỷ vô chung của thái cực, hết rồi lái bắt đầu trong phạm vi tuần hoàn. Từ đó, ông đã có nhận xét linh hoạt hơn đối với quan niệm truyền thống phương Đông về vũ trụ được hai biểu tượng cứng nhắc là trời phải tròn, đất phải vuông. Trời là cha biểu thị cho thế lực dương, đất là mẹ, biểu thị cho thế lực âm. Âm dương giao cảm mà tác thành vũ trũ theo nguyên lý của đạo, hoặc nói theo ngôn ngữ của Lão Tử, “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương điều hòa bằng khí trùng hư" (Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bạch dương, trùng khí dĩ vi hòa). Chính cách hiểu tương đối về hình thái cũng như cấu trúc của quả trứng với tính cách là một tiểu vũ trụ bao hàm trong nó cả trời và đất đã làm cho quan điểm triết học tự nhiên của ông phù hợp với việc xem xét quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ. Giống như [con người] trong khoảng giữa của vũ trụ do kết quả phát triển và phân định của thái cực, con gà được tạo tác từ nhân (chất đan biêm màu vàng), tự phát triển đến mức đủ lông, đủ cánh thì bay bổng lên trời cao làm sao Kim Kê cho vầng thái dương được sáng thêm. Còn con người với tính cách là sản phẩm của sự kết tụ tinh tuý giữa trời đất mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên, cũng phải hội đủ những điều kiện cần thiết để có ích cho xã hội.

Qua hai thí dụ nêu trên, chúng ta thấy, quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm về quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ là rõ ràng. Tuy nhiên, đặc điểm của loại quan điểm này là chỉ dừng lại ở việc mô phỏng, tạo điều kiện cho việc so sánh sự giống nhau ở tính huyền diệu của tiểu vũ trụ va vũ trụ bao la, thăm thẳm mà chúng ta đang sống. Mục đích của nó, suy cho cùng, nhăm trả lời cho vấn đề triết học muôn thuở: Con người ta từ đâu mà ra, cuộc sống của nó phải trải qua những bước căn bản nào và khi đến chặng cuối của cuộc đời, nó đi đâu về đâu?

Khác với các nhà triết học tự nhiên Hy Lạp cổ đại những người chuyên suy ngẫm, truy tìm cái bản nguyên của vũ trụ như nước, lửa, không khí… và cũng khác với các nhà triết học tự nhiên ở Châu Âu những nhà khoa học tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm thừa nhận ngay bản nguyên của vũ trụ là khí. Song, nếu xét về quan hệ giữa Khí và thái cực thì nhiều nhà nghiên cứu của chúng ta băn khoăn bởi điều là, trong hai phạm trù đó, phạm trù nào là phái sinh. Tuy ông, không nói cụ thế, song chúng ta có thế hiếu được rằng thái cực và khí cùng tồn tại. Theo quan điểm triết học truyền thống Trung Hoa, thái cực là một cái gì đó vô thuỷ vô chung, vô hình vô dạng. Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm diễn đạt quá trình hình thành vũ trụ bằng sự khởi đầu cái công việc huyền diệu mà thái cực đảm nhiệm là phân chia (sơ triệu phân). Song, điều đáng lưu ý là phải có cái gì đó làm đối tượng để phân chia. “Không có bột sao gột được nên hồ"? Chính vì vậy ông thừa nhận khí có trước vạn vật, kể cả con người, còn thái cực mang tính nhị nguyên bao hàm cả nghĩa vật chất, cả nghĩa nguyên lý với tính cách là quy luật, đạo…

Rõ ràng, ở Nguyễn Bỉnh khiêm, bản thể của vũ trụ là khí. Khí hiểu theo nghĩa vật chất văn chưa có hình, nó là tiềm ẩn, tiềm năng của thế giới hiện hữu. Ở đây, sự gặp gỡ giữa Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo về phương diện bản thê của vũ trụ là ở tư tưởng không hình, không tên, không sắc, không tưởng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đúc kết tư tưởng này bằng hai câu như sau: "Tòng đầu sắc thị không. Bản lai vô nhất vật". Từ đầu sắc đã là không. Vấn không có một vật gì cả). Tư tưởng này cho thấy, ông đã thừa nhận sự tiến hóa của vũ trụ là một quá trình diễn ra phức tạp và lâu đài, là sự kết hợp của hai thế lực âm dương (lưỡng nghi) rồi sinh ra tư tưởng (bắt đầu sự hiện hình của tồn tại), chứ không phải ngay lập tức đã có vạn vật trong vũ trụ.

Chính tư tưởng về sự tiến hóa của vũ trụ theo quy luật tuần hoàn (đi, về, bĩ cực, thái lai hết rồi lại bắt đầu) "Nhất chu khí vận chung nhi thuỷ. Bác phục đô tòng thái cực tiên" (nghĩa là khí vận chuyển rồi lại quay trở về nguồn gốc, hết quẻ bác đến quẻ phục rồi lại trở về với gốc thái cực), đã làm cho Trạng Trình liên tưởng ngay đến các hiện tượng xã hội như có rồi lại mất, vào rồi lại ra, vào càng dễ thì ra cũng càng dễ, không ai có thể bảo tồn được vĩnh viễn cái mình đang có. Đặc biệt, ông lưu ý đến sự giàu có do cách sống bất lương, phí pháp thì sẽ nghèo đi rất nhanh, giống hệt tần số dao động của sóng trong mối tương quan đến biên độ của nó.

Ý nghĩa của quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện rõ ở phương diện giáo dục con người thống qua nhận thức quy luật của tự nhiên phải hiểu được đao rồi mới tạo được đức, bởi đức là cơ sở đề đạo thể hiện. Tròng bài "Thừa trần", ông xem trần nhà như bầu trời nhỏ. Con người sống trong ngôi nhà phải biết rằng mình đang sống dưới bầu trời nhỏ đó và phải tu thân tích đức, sao cho không làm mất đi sự thanh khiết ban đầu [của nó], để mỗi khi ngửa mặt lên nhìn [nó] không thấy hổ thẹn với chính bản thân mình. Sự liên hệ này mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc: con người sống trong tự nhiên, đồng thời bị ràng buộc bởi các quan hệ xã hội. Từ quan mềm bán địa về thờ thần, thờ cúng tổ tiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm dẫn dắt con người vốn chỉ biết đặc niềm tin vào sự thần bí đến với nhận thức môi trường sống xung quanh mà không hề cắt bỏ "cái thần" của nó.

Có thể đúc kết quan điểm triết học tự nhiên mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập tới trong thơ văn của mình như sau: Một là, ông công nhận vũ trụ được hình thành từ khí, trải qua một quá trình tiến hóa lâu đài, chứ không phải do một thế lực siêu nhiên nào đó tạo ra. Hai là, xuất phát từ tín ngưỡng bản địa về đa thần ("thần cây đa, ma cây gạo"), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thóat ra khỏi sự ràng buộc của thần học, làm cho "các thần" đó hòa tan trong từng khách thể của tự nhiên. Ba là, thông qua nhận thức các hiện tượng diễn ra trong tự nhiên để đúc kết lại thành các quy luật, tiếp theo là nhận thức được các quy luật đó để vận dụng vào nhận thức các quy luật của đời sống xã hội. Đó cũng là đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào sự phát triển lý luận nhận thức, nói theo ngôn ngữ triết học hiện đại.

Chúng tôi cho rằng, quan điển triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm cần phải được nghiên cứu một cách sâu hơn, rộng hơn mới thấy hết được tầm bác học cũng như những đóng góp của ông cho tư tưởng triết học của dân tộc. Đây cũng là hướng gợi mở trong phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc, nhằm góp phần giải đáp vấn đề: có hay không tư tưởng triết học Việt Nam?

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Con người văn hóa trong tư tưởng của một số doanh nhân dân tộc

    01/01/1900Nguyễn Bình YênSo với một số nước có nền văn minh phát triển sớm như TrungQuốc, Ấn Độ và một số nước TâyÂu thì Việt Nam không có những học thuyết tư tưởng lớn có vai trò chi phối sự phát triển xã hội như Nho gia, Đạo gia...
  • Văn hóa Việt Nam, nhìn từ mẫu người văn hóa

    07/08/2006Song ThủyNhìn văn hóa Việt Nam từ mẫu người văn hóa, tôi tránh được một cái nhìn tuyến tính của sự biến thiên. Hơn nữa, lối tiếp cận này còn trình ra một cách hiểu khác về văn hóa. Văn hóa, tôi nghĩ, không chỉ là những gì bày ra trên mặt đất, mà quan trọng hơn, còn là những trầm tích trong lòng đất. Và trong lòng người.
  • Triết lý dân tộc Việt Nam qua tục ngữ

    10/03/2006Võ Thu TịnhTheo các nhà biên khảo thì các câu tục ngữ là một "quyển sách khôn, một kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết về vũ trụ và về nhân sinh" giúp cho dân gian ta "có được một tri thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời"...
  • Bàn về văn hiến Việt Nam

    26/12/2005GS. Vũ KhiêuVới Gs Vũ Khiêu - "'Văn hiến Việt Nam” là một sự nhìn lại, một cái nhìn chắt lọc, tinh tế hơn trên cơ sở của một công trình nghiên cứu đã xuất bản trước đây (do Nxb Khoa học xã hội ấn hành). Lần tái bản này tác giả mong muốn gửi đến độc giả một công trình nghiên cứu mang dấu ấn của gần cả một đời người đã sống và hoạt động trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng...
  • Một vài suy nghĩ về văn hóa Việt Nam

    10/12/2005Là một nhà nghiên cứu văn học, GS Hà Minh Đức rất quan tâm đến sự phát triển của nền văn hoá dân tộc vì theo ông văn hoá gắn với sự phát triển chung của đất nước, với mỗi con người, mỗi cuộc đời. Dưới đây, Tạp chí xin giới thiệu đôi điều suy nghĩ của GS về văn hoá Việt Nam.
  • Chân - thiện - mỹ: Mãi là đích hướng tới của văn chương

    17/11/2005Đinh Quang TốnTừ xưa đến nay, hướng tới chân - thiện - mỹ luôn là mục đích của văn chương. Bởi văn chương là một sản phẩm do con người tạo ra, mà con người thì khác muôn loài ở bản chất muốn vươn tới những điều tốt đẹp, nên văn chương luôn là một hoạt động vì con người, với khát vọng làm cho cuộc sống của con người ngày một tốt đẹp hơn...
  • xem toàn bộ