Diệu Giác

PGS TS Hà Vĩnh Tân
09:17 CH @ Thứ Năm - 18 Tháng Mười Một, 2010
MỤC LỤC
( Download PDF files...)

Thiền Duyệt

LỜI TỰA

1- HỌC ĐẠO
1.1. Học Đạo - Ơn Thầy.
1.2. Thiền Niệm - Thiền hành.
1.3. Hành Xả - Nụ Cười - Dạt Dào Biển Lớn.

2- BỤT NƠI TA
2.1. Quán Bụt - Vị Tha - Phật Pháp.
2.2. Song Tu - Thiền Định - Cực Lạc.
2.3. Bình Tâm - Bụt Nơi Ta - Vãng Sanh.

3- CHÂN NHƯ
3.1. Bồ Đề - Bát Nhã.
3.2. Lục Thông - Chân Như.
3.3. Kiến Tính - Thành Phật.

4- DIỆU GIÁC
4.1. Ánh Đạo Vàng - Tuỳ Duyên - Tứ Thần Túc.
4.2. Chính Tà - Chính Pháp - Chính Quả.
4.3. Niết Bàn - Diệu Giác.

5- VÔ VI
5.1. Vô Ngã - Vô Chướng - Vô Vi.
5.2. Đạo Đời - Như Lai - Như Như.
5.3. Diệu Tâm - Pháp Hoa - Niêm Hoa.

LỜI CẢM ƠN

Thời Gian

THIỀN DUYỆT

Đang say Thiền duyệt - chợt hiện thơ,
Tâm tự sinh ra - có ai ngờ,
Tinh kết trái hoa - hương trời đất,
Đậm lòng Pháp vị - ngỡ mình mơ.


LỜI TỰA

Tập thơ này,được hoàn thành vào dịp cả nước kỷ niêm ngàn năm Thăng Long - Hà Nội,gồm năm Chùm thơ với tựa đề: “Học Đạo”; “Bụt Nơi Ta”, “Chân Như”, “DiệuGiác” và “Vô Vi”; mở đầu với bài “Thiền Duyệt” và chia tay với bài“Thời Gian”.

Mỗi Chùm thơ đều chia làm 3 Cặp thơ, như mỗi ngóntay có 3 đốt (đầu, giữa và cuối), để dễ nhớ xin gọi là: cặp Khai, cặpGiải và cặp Kết. Mỗi Cặp chỉ có 2 hoặc 3 bài thơ ngắn. Cặp 2 bài gọi là“cặp đôi” hoặc “cặp đối”, cặp 3 bài gọi là “cặp bình hòa” hoặc “cặpchân vạc”. Như vậy, mỗi Bài thơ không thể tách khỏi các bài khác trongcùng một cặp thơ. Mỗi Cặp thơ không tách ra khỏi Chùm thơ. Mỗi Chùm thơlại liên kết với bốn Chùm thơ kia thành đủ… “năm ngón tay” nhịp nhàngtrong một “bàn tay Phật pháp”. Bàn tay Phật pháp lại buông nắm thảnh thơi, tùy duyên mà… điều phục tâm ý cùng đãi người tiếp vật.

Phậtpháp vốn không lời. Ngôn từ đặt ra chỉ là phương tiện mô tả hay chuyểntải nhận thức (một cách gần đúng hoặc chưa đúng) về đối tượng. Bởi “Khaiquyền thì phương tiện có muôn pháp, hiển thật thì hội ngộ về một tâm”;“Diệu lý của Phật pháp chẳng dính dáng gì đến văn tự ngôn ngữ, bặt hếtmọi hý luận, bản tế trong lặng tròn đầy, ba đời chư Phật cuối cùng đànhngậm miệng không lời, nhiều đời chư tổ rốt ráo cũng im hơi lặng tiếng.Nên Đức Thế Tôn giơ cành hoa chỉ cho đại chúng, ngài Ma-ha-ca-diếp khếhội mỉm cười, thầy trò bốn mắt nhìn nhau, huệ nhãn chiếu sáng lẫn nhau,thầm lặng ấn tâm, phó pháp truyền y nối vị Tổ” (trích lời Thiền Sư ChânNguyên).

Những bài thơ này thường sinh ra bất chợt, như cảm táctừ nội tâm thấm ít nhiều Pháp vị, nên tạm gọi là “thơ thiền”; lại dùngnhiều “pháp ngữ” của nhà Phật để biểu đạt, nên hẳn còn có nhiều chỗ cầnchú giải, kính mong quý độc giả lượng thứ và góp ý.

Tác giả hoan hỷ xin được chuyển tập thơ nhỏ này đến các Phật tử cùng các bạn yêu thơ gần xa.

1- HỌC ĐẠO
HỌC ĐẠO

Học Đạo lòng ta thỏa nguyện cầu,
Xả buông vạn sự chấp gì đâu,
Quay về lạc trú nơi Tâm Bụt,
Tuệ giác, tình thương, hạnh phúc giầu.


ƠN THẦY

Tỉnh ngộ bởi duyên được gặp Thầy,
Người là Bồ tát hiện đời nay,
Chính tâm Đại nguyện lời Bụt dạy,
Tịnh độ quyết xây thế gian này.




THIỀN NIỆM

Sống sao lòng thật thảnh thơi,
Xem đời như cuộc dạo chơi sơn hà,
Năm Châu ấm một mái nhà,
Tình thương hiểu biết là quà Phật ban.
*
Dù xuống biển dẫu lên ngàn,
An nhiên tự tại... lạc quan tu Thiền,
Chính niệm tuệ giác kết liền
Từ bi hỷ xả... mãn viên giữa trần.
*
Đất trời huyền diệu muôn phần,
Mưa thiêng Cam Lộ trong ngần rơi... rơi...
Hòa chan Tâm Bụt nơi... nơi...
Thế gian rạng ánh mắt cười... thương nhau.


THIỀN HÀNH

Bước chân, hơi thở, nụ cười,
Ba phép chính niệm của người thảnh thơi.
*
Đặt bước là đã ... tới nơi,
An trú hiện tại, đất trời nở hoa.
Thở sâu, êm nhẹ, bình hòa,
Thân tâm tạo hợp một tòa kỳ quan.
Cười nụ thấu hiểu, dung khoan,
Não phiền tan biến, hân hoan ngập lòng.
*
Cùng Thầy dạo khắp non sông,
Gieo niềm tin mới, Thiền tông nhập đời,
Thức tỉnh tâm trí bao người,
Chung xây hạnh phúc, rạng ngời quê hương.



HÀNH XẢ

Hành xả công năng thật nhiệm mầu,
Chịu đòn mạ lỵ có sao đâu,
Ung dung chính pháp sâu tâm khảm,
Tỏa ngát hương sen ao bùn nâu.


NỤ CƯỜI

Hàm tiếu, nụ cười thoảng trên môi,
Tâm thân hòa nhịp nhất như rồi,
Mặt trời chính niệm soi khắp nẻo,
Quán sát từ hòa mọi sự trôi.


DẠT DÀO BIỂN LỚN
(Chính pháp như biển lớn)

Dải cát mịn... đưa chân ta về biển,
Đứng mênh mông... luôn chung thủy đợi chờ,
Thả lên bờ... những phù du bèo bọt,
Nhận vào mình... nước ngọt mọi dòng sông.
Tình mặn mà... dù phong ba bão tố,
Chẳng đầy vơi... mặc ngày tháng năm dài,
Sâu đáy lòng... nuôi san hô ngọc quý,
Rộng cõi tâm... sinh dưỡng triệu muôn loài.



2- BỤT NƠI TA


QUÁN BỤT

Dáng Bụt điềm đạm, thanh cao,
Lời Bụt ấm áp, thấm vào tâm ta,
Lòng Bụt rộng mở, vị tha,
Mắt Bụt thấu hiểu, chan hòa tình thương.

VỊ THA

Bụt đâu tu sống bởi riêng mình
Muôn niệm, dụng tâm vị chúng sinh,
Từ bi, Trí huệ - khai Kiến Tính,
Thanh tịnh, Vị tha - đắc Tâm Minh.


PHẬT PHÁP

Tâm viên, Ý mã khổ làm sao,
Sai khiến ta đi khắp nẻo nào,
Ơn Phật phát minh Pháp mầu nhiệm,
Phục Tâm, kiềm Ý tuyệt biết bao.



SONG TU

Tịnh Độ cùng Thiền quyện hòa nhau,
Pháp môn mầu nhiệm diệt khổ đau,
Song tu đạt quả Phúc và Huệ,
Viên mãn cuộc đời nay và sau.


THIỀN ĐỊNH

Thiền tự tính, Định tự tâm,
Lục trần chẳng nhiễm, lặng câm niệm tồi,
Đứng, đi, nghĩ, nói, nằm, ngồi,
Tịnh, vô chướng ngại - bao hồi chân tu.

CỰC LẠC

Tâm tịnh, Cực lạc hiện bày,
Đưa mình về lại phút này với Ta,
Tính Giác là Phật Di Đà,
Bóng trăng tỏ hiện đáy hồ lặng trong.



BÌNH TÂM

Dù Thua - Được, tâm không xao xuyến,
Gặp Nhục - Vinh, lòng vẫn thản nhiên,
Mặc Khen - Chê, tâm luôn an tịnh,
Kệ Khổ - Vui, lòng mãi bình yên.

BỤT NƠI TA

Pháp thân - thanh tịnh trang nghiêm,
Báo thân - công đức mãn viên đời đời,
Hóa thân - diệu dụng nơi nơi,
Tam thân Bụt hiện sáng ngời Chân Tâm.


VÃNG SANH

Thấu rõ, Buông bỏ, Tùy duyên,
Lòng hằng niệm Phật, nhất nguyền Vãng sanh,
Sen thơm ngát, thắm một cành,
Tây phương Cực lạc viên thành Đạo Chân.



3- CHÂN NHƯ

BỒ ĐỀ

Tâm đắc - như rễ chùm vững chãi,
Ý thông - tựa thân thẳng dẻo bền,
Ngôn chính - là lá cành tươi tốt,
Hạnh lành - đấy hoa nụ thắm tươi.
*
Thành quả tròn đầy - công tu dưỡng,
Thơm ngon ngọt bổ - vị chẳng lường,
Người hiền tạo phúc - ngàn người hưởng,
Cây quý nở hoa vạn lây hương.

BÁT NHÃ

Được làm việc đáng làm,
Làm tốt việc đang làm,
Hạnh phúc là như vậy,
Còn điều chi muốn ham?
*
Ý niệm cùng tâm tu,
Ngôn hạnh hòa nhất như,
Bát nhã là Trí huệ,
Sáng tâm đấng trượng phu!



LỤC THÔNG

Lục căn mê đắm - tâm chẳng thông,
Lục dục khiến đời mãi lông bông,
Theo Phật tấn tu Đạo Tỉnh giác,
Lục căn thuần tịnh - Lục thần thông.
*
Phật pháp tựa như bè vượt sông,
Giúp ta đoạn dứt bụi trần hồng,
Sông Mê, biển Khổ dần vượt hết,
Đến bến rời bè lại về Không.

CHÂN NHƯ

Vượt qua Sáu Thức quậy lăng xăng,
Gặp Thức Bảy Si níu lằng nhằng,
Bình tĩnh lặng thinh chinh phục nốt,
Nhập vào Thức Tám - giác vạn năng.
*
Phật Pháp “ngón tay chỉ mặt trăng”,
Lái tàu nương ánh đèn hải đăng,
Đến bờ Giác ngộ buông bỏ hết,
Thể nhập Chân như - cõi Vĩnh hằng.



KIẾN TÍNH

Bất nhị - hữu nhị thành vô nhị,
Vô niệm - nơi niệm mà không niệm,
Vô tướng - nơi tướng luôn lìa tướng,
Vô trụ - đối cảnh tâm lặng không.
*
Pháp môn Bất nhị xưa tới nay,
Vô niệm làm tông vốn tỏ bày,
Vô tướng làm thể không dao động,
Gốc là Vô trụ, Kiến tính ngay.


THÀNH PHẬT

Trải qua ma khảo biết bao lần,
Thành Phật bão giông chẳng ngại ngần,
Vượt nạn phục ma thành tiên thánh,
Chẳng ma chẳng nạn chẳng thành nhân.
*
Giác tính Như Lai ở Tự tâm,
Hào quang chiếu diệu khắp xa gần,
Thân - tâm như một, thanh tịnh thể,
Ta - Phật chẳng hai, chuyển pháp luân.



4- DIỆU GIÁC


ÁNH ĐẠO VÀNG

Tâm thông hết thảy đều thông,
Tâm mê có mắt mà không thấy đàng,
Phật trao ta Ánh đạo vàng,
Tự mình khám phá Thiên đàng Tự tâm.

TÙY DUYÊN

Vạn pháp thế gian thảy tùy duyên,
Tử sinh thành hoại lẽ tự nhiên,
U mê, Chấp trước gây phiền não,
Buông chấp bỏ mê đặng thành Tiên.


TỨ THẦN TÚC

Nguyện cầu tha thiết đáy lòng ta,
Tinh tấn công phu nương Phật Đà,
Nhất tâm như núi không lay chuyển,
Quán phá U minh, ngựa phi xa.



CHÍNH - TÀ

Hành Đạo hiển Chính phá Tà,
Hết Tà buông Chính mới là tịnh thanh,
Quán soi sự - lý, dữ - lành,
Lỗi mình gắng sửa, chẳng tranh với người.


CHÍNH PHÁP

Đạo - đời, lý - sự khoác hai vai,
Thấu lý, đạt tình chẳng hại ai,
Xử thế, đối nhân theo Chính Pháp,
Hài hòa, nhu thuận giống Như Lai.


CHÍNH QUẢ

Siêng năng tưới Pháp khắp vườn tâm,
Thiền khéo hạt Linh sẽ nảy mầm,
Tinh tấn, công phu chăm cây lớn,
Bồ Đề Chính Quả ắt đầy mâm.



NIẾT BÀN

Nhân duyên gặp Pháp, liễu Tâm kinh,
Chợt thoáng ngộ ra Bản tính mình,
Chứng nhập Chân Như, lòng tịch mịch,
Bừng lên Trí Huệ đỉnh quang minh.


DIỆU GIÁC

Định Tâm, Huệ Nhãn mở dần ra,
Chiếu phá lầm mê cõi Ta bà,
Kiến Tính Minh Tâm, hai mà một,
Đạo mầu thành Phật tại lòng ta.
*
Giác Tính đủ luôn tự Tâm mình,
Xưa nay không diệt cũng không sinh,
Tịnh thanh vốn gốc không lay động,
Vạn pháp năng sinh tự Tâm Linh.
*
Niệm chân hễ khởi, thảy đều chân,
Muôn cảnh như như, mặc xoay vần,
Tâm vẫn như như - Tâm chân thật,
Nhập Tri Kiến Phật - Diệu Giác Tâm.




5- VÔ VI

VÔ NGÃ

Chấp Ngã - kiêu mạn, tự tôn,
Phân biệt, tranh cãi, thua hơn tối ngày.
Vô Ngã - Chân lý hiện bày,
Bình đẳng, tỉnh giác, tâm đầy lạc an.


VÔ CHƯỚNG

Tịnh tâm chẳng khởi những độc tà,
“Phiền não chướng” phàm, lấy đâu ra?
“Nghiệp chướng” không gieo, sao lo tội?
Ung dung, “Báo chướng” khỏi can qua.


VÔ VI

“Chẳng nghĩ”- ta vẫn hiện tiền,
Bên tai lời Tổ: “Thánh Hiền vô vi”.
Tâm ý “lặng rỗng” một khi,
Trí huệ bừng mở, Từ bi dâng trào.



ĐỜI - ĐẠO

Bình thường Tâm tức Đạo rồi,
Mây bay theo gió, nước trôi xuôi dòng.
Sống đời cốt ở tấm lòng,
Từ bi, Trí huệ, thong dong tâm hồn.


NHƯ LAI

Phật Tính vốn là “Tính chẳng hai”,
Thế gian nào có “đúng” hay “sai”,
Chính tâm, trung đạo, lìa sinh tử,
Kiến tính - tự lòng hiện Như Lai.


NHƯ NHƯ

Tướng, Danh, Phân biệt - ấy hướng mê,
Chính trí, Như như - thuận lối về,
Lạc nẻo Đắm mê - vòng Sinh tử,
Ngộ đường Tỉnh giác - thẳng về Quê.




DIỆU TÂM

Bát nhã hằng soi Tự Tâm mình,
Thảnh thơi, Tỉnh thức nhập Tính linh,
Thường nơi Giác tính muôn dụng khởi,
Công đức viên thành - Tâm diệu minh.


PHÁP HOA

Thế Tôn xưa hiện giữa cõi đời,
Cam lộ nhiệm mầu tưới khắp nơi,
Gian thế bao người bừng thức tỉnh,
Ngộ tri kiến Phật, tâm rạng ngời.


NIÊM HOA
(Niêm hoa vi tiếu)

“Ngậm lời” Phật - Tổ dạy truyền ta,
“Ngâm nghĩa” Từ bi, sống vị tha,
“Ngẫm ý” Diệu linh, vô niệm khởi,
Chân như, “ngấm lý”, nhoẻn cười hoa.

LỜI CẢM ƠN

Tôi vốn xưa nay chẳng làm “thơ”, có chăng chỉ đôi ba bài “thẩn”, cốt để cùng bạn bè cười cho sảng khoái. Vậy mà, từ khi được gặp Phật pháp, như nhân duyên hội ngộ, năm chùm thơ này sinh ra tuần tự như năm anh em cùng một gia đình và lần lượt được đăng trên Tạp chí Phật Học từ 2008 đến 2010. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến quý Ban biên tập.

Là người nghiên cứu khoa học, có duyên lành đến với Phật pháp và Thiền tông với pháp danh Chánh Tín. Tôi đã được khai tâm nhờ kinh Phật Thích Ca Mầu Ni, ngữ lục của chư tổ, như Lục Tổ Huệ Năng, Tổ Trần Nhân Tông…và thuyết giải của chư tăng ni; đặc biệt bởi các bài giảng Pháp tuyệt vời của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh… Tôi lại may mắn được Hòa Thượng Thích Giác Ngộ chỉ dạy chí tình về Phật pháp và pháp môn hành thiền mà Tổ sư Minh Đăng Quang truyền lại. Lòng tôi luôn ngập đầy sự biết ơn Đức Phật, các vị Tổ, các vị Thầy - những Đạo sư tuyệt diệu đã chỉ đường dẫn lối cho tôi tới “Đại dương Chánh Pháp” - Đạo Phật trong Đời.

Làm người, ai cũng sẵn có hạt giống Phật tính – viên ngọc quý báu nhất trong Tâm, nhưng thường bị mê mờ, không nhận biết được. Viên ngọc Tỉnh Giác này sẽ dần hiển lộ sáng đẹp trong lòng những ai luôn tấn tu theo tấm gương và sự chỉ dạy ân cần của Đức Phật cùng các vị Tổ sư - học trò chân tu của Người.

Tôi tự hỏi: Phải chăng những chùm thơ này cùng biết bao chùm thơ thiền khác, giống như những chùm quả bồ đề thơm ngon ngọt ngào, đều bắt nguồn từ hạt giống Phật tính, mà ở ai cũng sẵn có đó?!

Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những bạn yêu thơ và những bạn đồng tu đã đọc, phản biện và chia sẻ tâm nguyện cùng tôi với tập thơ nhỏ này.

Hà Nội, tháng 10 Canh Dần 2010

Chánh Tín – PGS TS Hà Vĩnh Tân
THỜI GIAN

Đồng hồ tích… tắc… gõ nhịp hai,
Đếm một, đếm hai, đếm đúng - sai,
Xuất - nhập, buồn - vui, rồi buông - nắm,
Lắc qua - lắc lại, xóa khổ tai.

*
Thời gian trôi mãi, chậm hay mau,
Thương - giận, hạnh phúc hay khổ đau,
Lưu chuyển đến - đi, không ngừng nghỉ,
Sống - Tu sao thật toại lòng nhau.
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • 14 điều răn của cổ nhân

    27/05/2014Đ.H.LXã hội phát triển đến mức nào đi nữa thì những giá trị truyền thống phương Đông, tức là cội nguồn văn hóa của mỗi dân tộc Châu Á vẫn cần phải được bảo tồn và trân trọng. Tuy là vốn cổ, nhưng nếu xét về nhân sinh quan đối với con người hiện đại thì dường như không cổ chút nào hay nói đúng hơn là câu chữ cũ, còn ý nghĩa thực tế vẫn hoàn toàn mới mẻ. Đây chính là điều đáng bàn luận và suy ngẫm...
  • Giải mã những bí ẩn của thiền định

    17/05/2010Hồ Trung TúChưa bao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lại được các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đề cập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter các báo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả những khám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởng từ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều mà trước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là những cảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành.
  • Haiku thư cổ và hiện đại

    22/04/2010Jackie Hardy (Nguyễn Nhung biên dịch)Với tôi, thơ Haiku mang đến một khái niệm đầy đủ về sự kỳ diệu này. Sự phong phú về chủ đề và hình ảnh mà thơ Haiku mang lại là cơ hội cho tôi được trải nghiệm những gì mà người ta có thể biết đến theo một cách khác. Với những nhà viết văn, thơ Haiku thể hiện không chỉ một khoảnh khắc xâm chiếm của tri thức mà còn là sự kết nối với thời gian nơi mà những từ đó đã từng thống trị. Vì thế với tôi không có gì ngạc nhiên khi thơ Haiku trở nên phổ biến trên thế giới.
  • Chuyện Thiền

    05/06/2009Cao Huy Thuần“Trời trống mây thì trăng mới sáng”. Ngay cả câu căn dặn đó cũng phải trống đi trong đầu khi sắp rút kiếm, huống hồ mấy chuyện thiền thông thái kia! - Trích sách Thấy Phật (Tác giả: Cao Huy Thuần, Phương Nam Books, 2009)
  • Lý luận Thiền tông trong Thập mục ngưu đồ

    10/03/2009Ngụy ĐịnhCác bức tranh chăn trâu được sáng tạo từ thời nhà Tống ở Trung Quốc (960 – 1279) ngay từ ban đầu nó đã được xem như là những bức họa tiêu biểu, trình bày về tinh hoa Phật giáo Thiền tông – Trung hoa. Mười bức tranh Thập mục Ngưu đồ của Thiền tông tương ứng với quá trình hành đạo của một người phát nguyên dấu những tinh hoa của Phật giáo Đại thừa...
  • Chùm thơ Thiền

    28/02/2009Hà Vĩnh TânSống sao lòng thật thảnh thơi,
    Xem đời như cuộc dạo chơi sơn hà,
    Năm châu ấm một mái nhà,
    Tình thương hiểu biết là quà Phật ban...
  • Sự kết nối thơ thiền xưa và nay

    30/01/2009Hoàng Thị Ngọc BíchTrong xã hội hiện đại, con người dường như bị cuốn theo những lo toan, bộn bề của cuộc sống thường nhật. Nhưng không vì lý do đó mà họ đánh mất cảm xúc của mình. Ẩn sâu trong tâm hồn mỗi cá nhân vẫn là "chất nghệ sĩ" mãnh liệt và khi bắt gặp nguồn cảm hứng thì họ có thể làm nên những áng thơ...
  • Thiền và tâm lý học

    18/08/2006Nguyễn Chu PhácThiền học luôn luôn quan niệm mọi vật là không, thân xác, tâm tưởng và mọi sự vật đều là không. Chỉ có không là hiện hữu, tồn tại mãi mãi. Nếu tinh thần và sự sống (sinh mạng) của chúng ta trở thành hư không hoàn toàn trong tọa thiền, thì chúng ta có thể thâm nhập vào mọi sự vật...
  • Thiền học hay là triết lý của sự im lặng

    04/01/2006Nguyễn Đức ĐànChữ Thiền, Thiền học vốn từ chữ Thiền tông mà ra. Theo truyền thống của trường phái Zen, Buddha có một loại bài giảng bí truyền, từ đời này qua đời khác mà không cần có văn bản viết. Phật truyền riêng cho một môn sinh nào đó, môn sinh ấy là truyền riêng cho môn sinh của mình...
  • Thiền phật giáo nguyên lý và một số phạm trù cơ bản

    23/12/2005TS. Hoàng Thị ThơPhân tích quan niệm của Thiền Phật giáo về quá trình nhận thức, và cùng với nó là quá trình giải thoát, tác giả muốn chỉ ra thế mạnh cũng như hạn chế của những quá trình mang tính hướng nội và cá thể này. Vì vậy, có thể lý giải được sự lan toả đang rất thành công của Thiền Phật giáo trên thế giới hiện nay...
  • xem toàn bộ