Sự hình thành tư duy và một số đặc trưng của nó

06:10 CH @ Thứ Tư - 23 Tháng Tám, 2006

Tư duy con người luôn là một trong những vấn đề lớn của triết học. Nhưng tư duy là gì thì cho đến nay, vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong bài viết này, trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng tôi muốn góp thêm một ý kiến nhằm làm rõ sự hình thành tư duy và một số đặc trưng của nó.

1. Sự hình thành tư duy.

Khi đưa ra nhận xét về vaitrò củanhững hoạt động sống trong đời sống của con người cũng như con vật, C.Mácđã phân biệt rõ: "Con vật đồng nhất trực tiếp với hoạt động sinh sống của nó. Nó không tự phân biệt nó với hoạt động sinh sống của nó. Nó là hoạtđộng sinh sống ấy.Còn con người thì làm cho bản thân hoạt động sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí và của ý thức của mình. Hoạt động sinh sống của con người là hoạt động sinh sống có ý thức. Đó không phải là cái tính quy định mà con người trực tiếp hòa làm một với nó. Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống của con vật. Con người phân biệt với con vật bởi hoạt động sinh sống có ý thức của họ. Nhưng ý thức là gì mà với nó, trong hoạt động của mình, con người tự phân biệt với con vật? Trả lời vấn đề này, C.Mác cho rằng, ý thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó", còn V.I.Lênin thì cho rằng, ý thức là phản ánh chủ quan của thế giới khách quan". Vậy, có thể khái quát theo quan điểm duy vật biện chứng rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong bộ não người một cách năng động và sáng tạo.

Lao động là phương thức hoạt động sinh sống của con người. Trong lao động diễn ra một quá trình gồm hai chiều liên quan mật thiết với nhau. Chiều thứ nhất, hoạt động được vật hoá vào trong sản phẩm, tác lao động chuyển từ hình thái "động" sang hình thái "tĩnh”. Chiều thứ hai, "di chuyển" các khách thể vào bộ não người, cải biến đi và tạo ra trong đó những hình ảnh chủ quan hay ý thức. Chiều thứ hai chính là hoạt động phản ánh của con người, hoạt động sản sinh ra ý thức.

Hoạt động phản ánh của con người là hết sức phức tạp, song về đại thể, có thể đưa một cách tương đối thành hai mặt: xúc cảm vànhận thức. Xúc cảm tạo ra những tình cảm nói lên mục đích và điều khiển hành động của con người với đối tượng bằng cách gán giá trị cho các mục tiêu của chúng. Nhận thức thể hiện sự phản ánh hướng đến nắm bắt khách thể cùng các phương tiện, phương pháp hoạt động và sản sinh ra những tri thức cung cấp “cái kỹ thuật" cho con người trong hành động của họ. Xúc cảm và nhận thức trong hoạt động phản ánh của con người gắn bó mật thiết với nhau, chúng ta thấy ở các hiện tượng ý thức, không có sự hiểu biết nào lại không đi kèm với những tình cảm nhất định và cũng không có tình cảm nào lại không hàm chứa một sự hiểu biết nhất định. Sự gắn bó hữu cơ giữa xúc cảm và nhận thức cho phép chúng ta có thể coi hoạt động phản ánh của conngười như là quá trình nhận thức và do đó không có nhận thức thì nói chung, cũng không có ý thức.

Thoạt đầu, ý thức thường chỉ là những hình ảnh của con người về thế giới các sự vật, hiện tượng bên ngoài. Sự phát triển xã hội ngày càng làm cho lao động trở thành phương thức sinh sống duy nhất của tồn tại người và do đó, cũng làm cho ý thức trở thành hình thức phản ánh phổ biến mang đặc trưng người. Khi đó, ý thức được mở rộng ra và bao quát toàn bộ đời sống con người, cả thế giới các sự vật, hiện tượng bên ngoài lẫn hoạt động của con người và do vậy, bản thân hoạt động với đối tượng cũng được con người ý thức, tức là con người ý thức về các hành động của chính mình. Đây chính là điều mà theo C.Mác, nhờ nó, con người biến bản thân hoạt động sinh sống của mình thành đối tượng của ý thức. Và, chỉ khi con người ý thức được hoạt động của mình thì khi đó, mới có sự "di chuyển" (có cải biến) hoạt động vật chất bên ngoài vào trong đầu óc họ và cũng chỉ khi đó, không chỉ đối tượng và kết quả hoạt động, mà cả những hành động và thao tác thực tiễn của con người mới được phản ánh vào trong đầu óc họ. Lúc này, những hành động và thao tác thực tiễn bên ngoài của con người trở nên có ý nghĩa điệu bộ, thông báo và lời nói, chúng được ghi lại, giữ lại và cải biến đi trong bộ não của họ thành những hành động và thao tác trí óc, làm cho "ý thức - hình ảnh” trở thành "ý thức - hoạt động". Nói cách khác, ý thức đã trở thành hoạt động. Và với tư cách là hoạt động, ý thức có tính độc lập tương đối với thế giới đối tượng và ở chừng mực nhất định, đã được giải thoát khỏi sự chi phối trực tiếp của thực tiễn cảm tính của con người.

Ý thức - hoạt động, về đại thể, cũng có mặt xúc cảm và mặt nhận thức. Mặt xúc cảm vẫn tạo ra những tình cảm xác định mục đích và gán giá trị cho các mục tiêu hành động của con người. Nhưng lúc này, xúc cảm có trình độ cao hơn, nó trở thành một hoạt động bên trong ý thức và những đánh giá do nó thực hiện được nâng lên dưới sự chỉ dẫn của tri thức, làm cho các tình cảm hàm chứa yếu tố trí tuệ nhiều hơn. Mặt nhận thức vẫn là hoạt động nắm bắt khách thể cùng các phương thức và phương tiện hoạt động, sản sinh ra những tri thức cung cấp kỹ thuật cho các hành động của con người. Song lúc này, nhận thức đã được nâng lên trình độ cao hơn, trở thành một hoạt động trí óc diễn ra ngay bên trong các hiện tượng ý thức. Nhận thức trở thành hoạt động của tri thức sản sinh ra tri thức. Ở bình diện ý thức - hoạt động, nhận thức con người phản ánh được cả bản thân hoạt động của họ. Khi hoạt động được nhận thức thì các tri thức được sản sinh ra trở nên có nội dung hoạt động. Nói cách khác, nhận thức sản sinh ra những tri thức và truyền cho chúng cả nội dung hoạt động. Mỗi tri thức có nội dung hoạt động bao giờ cũng là một "hình ảnh tổng thể" về đối tượng, về phương tiện và phương pháp hoạt động, về những hành động và thao tác thực tiễn của con người với đối tượng và về cả bản thân chủ thể hoạt động: Do vậy, có thể nói, tri thức có nội dung hoạt động thực sự là một hệ thống. Nội dung hoạt động của tri thức chính là hiện thực khách quan, bao gồm các đối tượng vật chất, các phương tiện và phương pháp, các hành động và thao tác vật chất của con người với đối tượng đã dược phản ánh trong nhận thức của họ.

Với những tri thức có nội dung hoạt động thì một dạng nhận thức cao hơn của con người xuất hiện, đó là tư duy. Nếu nhận thức nói chung được hiểu là sự phản ánh có cải biến thế giới khách quan trong đầu óc con người và sản sinh ra ở trong đó những tri thức, thì tư duylà kệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức.Tư duy là mặt nhận thức của. ý thức - hoạt động và do vậy, nếu không có nhận thức, không có ý thức thì con người cũng không có tư duy. Dĩ nhiên, không phải cứ có nhận thức và ý thức là con người đã có tư duy. Con người có tư duy khi nhận thức của họ phản ánh được hoạt động vào trong ý thức. Điều đó cho thấy, tư duy không hoàn toàn đồng nhất với ý thức, nó là mặt nhận thức của ý thức - hoạt động. Tư duy cũng không đồng nhất với nhận thức nói chung, mà là nhận thức ở trình độ cao, trình độ con người phản ánh được hoạt động của họ vào trong ý thức. Sự xuất hiện của tư duy đánh dấu bước phát triển căn bản của nhận thức con người, khi nhận thức đạt tới trình độ có thể nắm bắt được bản chất, quy luật của hiện thực khách quan. Cùng với tư duy của mình, con người chính thức trở thành chủ thể của các quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội của mình.

2.Những đặc trưng của tư duy.

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của tư duy. Nhũng đặc trưng đó là:

Thứ nhất,tư duy là dạng hoạt động tri thức diễn ra trong ý thức con người,có nguồn gốc thực tiễn. Dạng hoạt động này có cơ cấu gồm các hành động và thao tác của trí óc. Những hành động và thao tác trí óc có nguồn gốc từ những hành động và thaotác thực tiễn trong lao động của con người lao động xét như là phương thức tồn tại phổ biến của cộng đồng người. Chính nhận thức đã phản ánh lao động vào trong bộ não người, cải biến đi ở trong đó các hành động và thao tác trí óc. Sự phát triển của lao động quyết định sự xuất hiện và hoàn thiện các hành động, các thao tác trí óc trong tư duy của con người, ngược lại sự phát triển tư duy con người cũng có tác dụng hoàn thiện các hành động và thao tác thực tiễn trong lao động của họ.

Thứ hai,tư duy là một dạng nhận thức nảy sinh khi có những hệ thống tri thức làm tiền đề. Các tri thức tiền đề đều được đem lại bởi nhận thức, nhưng để được đưa vào quá trình tư duy nào đó, chúng phải có nội dung hoạt động và phù hợp với logic hoạt động của lao động, tức là phù hợp với tính quy luật của những hành động và thao tác thực tiễn của lao động. Tư duy sản sinh ra tri thức dựa trên hệ tri thức có trước làm tiền đề và do vậy, nó là dạng nhận thức gián 'tiếp. Không có hệ tri thức làm tiền đề, chỉ có thể có nhận thức mà chưa có tư duy. Tư duy cũng là sự vận động của các hệ thống tri thức. Nếu chỉ dựa trên một số hữu hạn những tri thức làm tiền đề thì quá trình tư duy sẽ có lúc phải dừng lại. Cho nên, để tư duy liên tục diễn ra thì phải thường xuyên bổ sung thêm những tri thức mới, những tài liệu mới được đem lại bởi nhận thức trên cơ sở vận động của hiện thực và sự phát triển của lao động.

Thứba, với tư cách là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức, tư duy con người đòi hỏi một bộ máy công cụ và phương tiện nhất định. Không có bộ máy này thì hệ tri thức không thể đi vào hoạt động và vì thế, cũng không có tư duy. Các công cụ của tư duy, như khái niệm, phán đoán, suy lý…là những hình thức mà trong đó, tri thức được tập trung, tổ chức lại và đi vào hoạt động. Tư duy con đòi hỏi các phương tiện để cố định lại (nói một cách tương đối), khách quan hoá và truyền bá tri thức. Chính các tín hiệu, dấu hiệu và ngôn ngữ là những phương tiện của tư duy con người, trong đó ngôn ngữ là phương tiện phổ biến và hữu hiệu nhất. Ngôn ngữ tham gia vào các quá trình tư duy với tư cách là cái chứa đựng các nghĩa biểu đạt cho sự vật mà thoạt đầu, có hình thái vật chất bên ngoài với chức năng phát âm thông báo, về sau chức năng này giảm dần và chuyển thành lời nói bên trong, có chức năng chuyên chở các ý nghĩ. Mặc dù vậy, sự phát triển của tư duy cũng không làm cho hình thức vật chất bên ngoài của ngôn ngữ mất đi mà ngược lại, nó luôn được duy trì và phát triển. Nhờ 'có bộ máy công cụ và phương tiện đó mà các quá trình tư duy không bị hỗn loạn, trở nên xác định. Và được duy trì.

Thứ tư,tư duy xuất hiện khi mà trong cuộc sống, con người vấp phải những vấn đề nào đó và do đó, nó luôn có ít tượng nhất định. Tư duy không diễn ra nếu conngười không vấp phải những vấn đề trong cuộc sống của họ và với tư cách là hoạt động tri thức, tư duy không thể không có đối tượng. Khi có một vấn đề thực tiễn hay nhận thức mà với những tri thức cũ hay cách làm cũ, con người không giải quyết được hoặc giải quyết không có hiệu quả thì quá trình tư duy diễn ra với tư cách là sự huy động khối tri thức mà họ đã lĩnh hội được để tìm ra các giải pháp mới. Do các giải pháp này là những giải pháp cho hoạt động, nên tư duy chỉ có thể tìm ra chúng trong quá trình nhận thức những đối tượng nhất định. Cùng với việc tìm ra các giải pháp cho hoạt động của con người, tư duy còn tạo ra cho họ những tri thức mới.

Thứ năm,tư duy là một chức năng của não người và với tư cách này, nó là một quá trình tự nhiên, song mặt khác, tư duy cũng không tồn tại bên ngoài xã hội, bên ngoài khối kiến thức và các phương thức hoạt động mà loài người đã sáng tạo ra và tích luỹ được. Mỗi con người cụ thể trở thành chủ thể tư duy không chỉ vì họ có bộ não, mà quan trọng hơn là vì, trong quan hệ xã hội - giao tiếp, họ nắm được ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ, họ lĩnh hội được các tri thức, các công cụ, các thao tác logic do loài người sáng tạo ra. Và do vậy, tư duy là một chức năng của bộ não người có tính xã hội - lịch sử, là một sản phẩm của lịch sử xã hội.

Những đặc trưng trên đây cho phép chúng ta hình dung mỗi quá trình tư duy với hai chiều. Chiều thứ nhất thể hiện tư duy là quá trình bao gồm các hành động và thao tác trí óc nhằm thâm nhập vào thế giới đối tượng bằng cách sử dụng các công cụ, các phương tiện nhận thức để sản sinh ra những tri thức mới, đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn và nhận thức mà con người đang hướng tới. Chiều thứ hai thể hiện tư duy là quá trình mà cũng bằng cách thông qua việc sử dụng các công cụ, các phương tiện nhận thức, nhưng là để củng cố, hệ thống hoá và duy trì khối tri thức mà con người đã có. Đây là hai chiều đồng thời và thống nhất với nhau trong mỗi quá trình tư duy nhất định, nhưng có tác dụng khác nhau: chiều thứ nhất đảm bảo cho tư duy một sự phát triển và biến hoá, chiều thứ hai lại đảm bảo cho các quá trình tư duy có tính xác định, cho phép nó tạm thời chấm dứt để có thể được khách quan hoá và hiện thực hóa.

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Tư duy hệ thống và đổi mới tư duy

    26/03/2014GS. TSKH. Phan Đình DiệuThế kỷ 20 vừa đi qua và những thành tựu khoa học to lớn mà loài người đạt được trong thế kỷ đó đã làm đảo lộn nhiều hiểu biết vốn có của chúng ta về những vấn đề cơ bản như không gian và thời gian, vật chất và vũ trụ, sự sống và con người, rồi tiếp đến là kinh tế và xã hội... Từ những hiểu biết mới trong nhiều lĩnh vực khác nhau dần dần đã hình thành một quan điểm mới, một tư duy mới về thiên nhiên cũng như về xã hội của chúng ta...
  • Sự lẽo đẽo của tư duy

    09/01/2011TS. Nguyễn Sĩ DũngMột triết gia đã từng khẳng định: “Mọi thứ dẫn con người đến hành động đều phải đi qua cái đầu của anh ta”. Nghĩa là anh ta phải nhận thức được vấn đề trước khi phản ứng lại với nó. Nhận thức đi trước là một điềm lành, là điều kiện thuận lợi để phản ứng mạch lạc, hiệu quả đối với các thách thức của cuộc sống...
  • Tư duy hệ thống

    25/04/2006Ngô Trung ViệtNhân loại đã thành công qua thời gian trong việc chinh phục thế giới vật lý và trong việc phát triển tri thức khoa học bằng việc chấp thuận phương pháp phân tích để hiểu vấn đề. Phương pháp này gồm bẻ vấn đề thành các cấu phận, nghiên cứu từng phần cô lập và rồi rút ra kết luận về cái toàn thể. Loại tư duy tuyến tính và máy móc này đang ngày một trở nên không hiệu quả khi đề cập tới các vấn đề hiện đại...
  • Một phương thức tư duy mới

    19/04/2006Edgar Morin (Nhà xã hội học)Ngày nay trong bối cảnh mọi tri thức chính trị, kinh tế, nhân chủng học, sinh thái học đã trở thành toàn cầu, đòi hỏi phải đặt mọi nhận thức về thế giới theo một hình thức tư duy mới...
  • Tư duy phương Đông nhìn dưới ánh sáng học thuyết Einstein

    07/11/2005Nguyễn Huệ ChiĐột phá khoa học của thế kỷ XX được đánh dấu bằng việc khám phá ra thuyết tương đối của nhà vật lý học Albert Einstein ngay vào những năm đầu thế kỷ đã làm chấn động dư luận thế giới, nhưng ý nghĩa lớn lao của nó, theo tôi nghĩ, lại chính là sự tác động dây chuyền và có tính chất lâu dài trong suốt cả một thế kỷ, làm lung lay một phương pháp tư tưởng đã hằn sâu thành nếp, chiếm địa vị độc tôn trong nghiên cứu, có lúc gây bế tắc trì trệ cho nhiều ngành khoa học, không chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội và nhân văn - phương pháp duy lý cổ điển [1] của phương Tây...
  • Thử nêu mấy nét chủ yếu của phong cách tư duy khoa học hiện đại

    24/08/2005Phạm Duy HảiMột số ngành khoa học phi cổ điển đầu tiên đã ra đời từ cuối thế kỷ 19, song khoa học hiện đại chỉ thực sự ra đời do cuộc cách mạng vĩ đại trong khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XX. Mở đầu là thuyết lượng tử, đến thuyết tương đối, và đặc biệt là cơ học lượng tử. Các lý thuyết khoa học vĩ đại này đã làm thay đồi căn bản lối suy nghĩ về tự nhiên và hình thành một phong cách tư duy khoa học mới, gọi là phong cách phì cổ điển...
  • Einstein và các cuộc cách mạng tư duy khoa học trong thế kỷ 20

    15/08/2005Phan Đình DiệuNhững biến đổi cách mạng về tư duy trong vật lý học hiện đại, đánh dấu bởi việc ra đời thuyết tương đối, vật lý lượng tử, và gần đây hơn là hiện tượng “hỗn độn tất định” cùng với sự xuất hiện của khoa học của thế kỷ 20 nói chung một khung mẫu tư duy hoàn toàn mới, hứa hẹn đưa đến những bước tiến mới cho nhận thức của con người về vũ trụ, tự nhiên, xã hội, và cả về chính mình...
  • Về sức khoẻ của tư duy

    19/07/2005Tương laiKhông khó khăn lắm để bắt gặp đâu đó quanh ta những người còn rất trẻ những cách suy nghĩ thì quá cũ kỹ, nhạt nhoà, ngược lại có người tuổi cao thậm chí rất cao, nhưng cách nghĩ lại rất trẻ trung, khoáng đạt. Tuy vậy, thực tế đó không bác bỏ một sự thật cũng rất dễ kiểm nghiệm là tuổi trẻ tiếp cận với cái mới, dễ dị ứng với sự trì trệ, không cam chịu với những cái đã quen đang bào mòn sức sống, lẽ sống. Họ không chịu dễ dàng dẫm theo những lối mòn làm chùn bước khát vọng khám phá. Đương nhiên, không phải người trẻ tuổi nào cũng có được cái đó, nếu giả dụ được cả như vậy, thì thật phúc lớn cho dân tộc!
  • Định nghĩa về tư duy suy luận

    09/07/2005Tư duy suy luận nghĩa là cách suy nghĩ đúng đắn trong việc theo đuổi với tri thức thích hợp và đáng tin cậy về thế giới. Miêu tả cách khác đó là lối suy nghĩ đầy kỹ năng, có trách nhiệm, có suy tư và hợp lý được tập trung vào việc quyết định xem nên tin tưởng hoặc thực hiện điều gì.
  • Chúng ta thường gặp lỗi khi tư duy như thế nào?

    05/11/2004Bùi Quang MinhTrong lao động và cuộc sống hàng ngày, bất cứ với ai, ở đâu và vào lúc nào cũng đều cần phải có tư duy chuẩn xác, chân thực và đúng đắn. Để đến được sự chuẩn xác trong suy nghĩ, mỗi chúng ta đã trải qua không biết bao nhiêu suy nghĩ sai lầm, thiển cận, chủ quan, thiếu chính xác và không ít trong số đó đã phải trả giá đắt. Đây là bài viết phân tích một số lỗi căn bản của quá trình tư duy...
  • xem toàn bộ