Hồn phố

03:23 CH @ Thứ Tư - 02 Tháng Năm, 2007

Bạn tôi, một tiến sĩ kiến trúc, người gốc Nội, chuyên nghiên cứu về hình thái học đô thị. Thời gian gần đây anh thường được mời đọc tham luận tại nhiều Hội thảo khoa học về quy hoạch đô thị ở trong và ngoài nước. Quen biết nhau đã lâu, lại cùng là KTS, nên tôi hiểu anh rất rõ. Tôi quý anh ở cách nghĩ, cách sống. Với bạn bè thì hết lòng, với công việc thì nghiêm túc, cẩn trọng và rất trung thực. Trong thời buổi này, người như anh cũng không phải là nhiều. Cùng với một, hai người bạn, chúng tôi hay ngồi đàm đạo với nhau về chuyện nghề, về kiến trúc. Trong những cuộc "trà dư, tửu hậu” này bao giờ anh cũng là người nói say sưa nhất. Theo anh, đô thị như một cơ thể sống, nó cũng phải biết thích nghi với các yếu tố tác động để cỏ thể tồn tại theo thời gian. Vì thế, để đô thị phát triển bền vững trong quá trình đô thị hoá, thì người làm quy hoạch, người quản lý quy hoạch phải biết nhận diện đô thị, phải biết hình thái đô thị sẽ phát triển ra sao, thế nào trong môitrường cảnh quan, thiên nhiên mà nó được sinh ra, tồn tại .Không hiểu được đô thị, không nhận diện được nó thì làm sao có được bản sắc riêng cho từng đô thị. Tôi đồng ý với anh rằng muốn "nhận diện" được thì phải "hiểu”. Nhưng để hiểu được đầy đủ sâu sắc một đô thị, một miền đất nơi sinh ra đô thị ấy lạilà vấn đề khác. Từ rất lâu nay, do hoàn cảnh của đất nước, chúng ta đã quá quen với cách làm quy hoạch : trên làm cho dưới, trung ương làm cho địa phương. Người ngồi ở Nội vẽ quy hoạch đô thị cho tỉnh miền núi. Vẽ hời hợt, hiểu cũng hời hợt, vẽ xong được một thời gian thấy không phù hợp thì điều chỉnh. Thế nên mới có chuyện, nhiều thị xã kiểu như Điện Biên (mới đây là thành phố) bạt đồi, xẻ núicho phẳng để xây nhà kiểu chia lô như đô thị dưới xuôi .Có lẽ vì kia rộ lên câu chuyện mời người khác đến Hội thảo để giúp họ nhìn hộ xem đô thị của mình nó là cái loại gì. Thời dân chủ, cập nhật thông tin, trọng dụng người hiền tài là rất quý.

Kia rộ lên câu chuyện mời người nơi khác đến Hội thảo để họ giúp nhìn hộ xem đô thị của mình nó là cái loại gì. Thời dân chủ, cập nhật thông tin, trọng dụng người hiền tài là rất quý. Nhưng là người trong cuộc, là dân bản địa mà không có chính kiến riêng, không có tư duy cảm nhận được cái hình thái đặc trưng của nơi mình đang sống thì qủa là đáng tiếc (!). Chính vì vậy, mà bạn tôi cùng vài chuyên gia khác ở Nội giờ luôn tất bật do được mời đi nhận diện đô thị ở những đẩu đâu, từ miền Trung lên đến tít miền ngược. Thôi cũng mừng cho anh vì có đất mà dụng võ!

Tôi không nghiên cứu sâu về đô thị học nên không có tham vọng khi viết về một lĩnh vực đa ngành và quá rộng này. Nếu có, thì chỉ là những gì rất bé, vụn vặt, đời thường mà tôi chắt chiu, cảm nhận được Nội, thành phố thân yêu nơi tôi đã lớn lên và đi qua quá nửa cuộc đời. Nhà văn Băng Sơn trong tập tùy bút “Cái thú lang thang” mà ông tặng tôi cách đây 5 năm, khi nói về hồn dân tộc đã khẳng định: “Lục bát ca dao, lục bát thơ, lục bát dân ca… là tâm hồn dân tộc… nó còn thì dân tộc này còn”. Đấy là ông đang nói về một phạm trù rộng lớn về văn hóa, đất nước, dân tộc. CònDominiqueDelaunay, một học giả người Phápnc về Nội thùi có cái nhìn khiêm tốn hơn “Nội nhắc nhở chúng ta rằng sự vĩnh cửu dựa trên những cái nhất thời. Rằng tâm hồn được thể hiện rõ nét nhất thông qua những phương tiện thường nhật, giản dị”. Tôi tán đồng với vị học giả này.

2) Cuối những năm 50 và những năm 60, gia đình tôi sống trên tầng 2 một ngôi nhà có kiến trúc kiểu Pháp ở phố Trần Phú, ngay sát đường tàu hỏa ngày cũng như đêm chẳng mấy khi vắng tiếng còi tàu hú. Khi ấy, tôi mới 10 tuổi, nhưng đã biết tự đi học một mình, dù trường ở tận phố Nguyễn Thái Học, cạnh nhà in Xuân Thu. Cái phố tôi ở là phố cũ chỉ toàn là biệt thự và công sở nên yên tĩnh lắm. Chỉ đoạn phố ngắn phía đường tàu hỏa có nhà tôi, giáp đường Phùng Hưng nhìn sang phố Hàng Da, chếch ra HàngBông là nhộn nhịp đôi chút vì có hoạt động Thương mại. Đường Trần Phú là đường trồng sấu. Những cây sấu đại thụ có đến trăm tuổi to hai người ôm, vỏ đen nhánh, tán rợp xum xuê. Mùa hoa sấu thì cả phố như được ướp hương. Hương hoa sấu nhẹ nhàng tinh khiết,chứ không nồng như hoa sữa. Cứ mỗi buổi sáng vào mùa hoa là đường phố như phủ trắng những bông sấu bé liti. Nhặt lên đưa vào miệng đã thấy vị chua dôn đốt của quả. Những đêm hè khó ngủ, tôi thường được bà cho ra ngồi hóng mát ở ban công nhìn xuống đường. Trong tiếng xào xạc của những nhành lá sấu là tiếng gậy khua đều đều: “lốc cốc… lốc cốc” của ông già mù tẩm quất với tiếng rao khàn khàn, khê nồng trầm đục: “Quất… ơ…”. Trông thấy ông là tôi sợ, không hiểu sao nhưng tôi lại thích nghe tiếng rao của ông. Bà tôi bảo, lão mù thế mà “tầm” hay lắm. Tay lão động vào đâu là xương cốt kêu rưng rức. Bẵng đi một thời gian, tôi không còn nghe thấy tiếng “Quất… ơ… ơ” ấy nữa. Đêm hè, cái phố như rộng ra vì thiếutiếng gậy khua lốc cốc. Nghe bà bảo, lão đã chết rồi, cô đơn sau một trận cảm gió. Rồi những đêm đông, ngoài đường vắng lặng chỉ có tiếng gió đuổi nhau ào ào trên từng rặng sấu, bỗng da diết trên phố dài hun hút một tiếng rao con gái khắc khoải gọi mời: “Ai khúc ơ… khúc ơ….”. Thi thoảng tôi cũng được bà lấy ra đồng 5 xu mua cho một cái bánh khúc nóng hổi, ngoài phủ lớp xôi nếp trắng tinh. Năm tháng trôi đi, tôi cũng dần lớn khôn và vào học trong trường Thiếu sinh quân NguyễnVăn Trỗi rồi sang TrungQuốc. Gia đình tôi cũng đã chuyển nhà, không ở phố Trần Phú nữa… Thế nhưng, những kỷ niệm nho nhỏ về đường phố đầy hoa sấu này, cùng tiếng raod dêm cứ ngày càng sâu đậm trong tôi. Bây giờ đã qua cái tuổi tri thiên mệnh, yên phận với cuộc đời, với một mái nhà giản dị của riêng mình, trong con ngõ nhỏ đầu phố Kim Ngưu, tôi vẫn thường lang thang trên những con phố thân quen của Hà Nội khi rảnh rỗi, như để tìm lại những kỷ niệm một thời của mìn. Con người ta mỗi tuổi có một cách nhìn khác, với tôi giờ chỉ thích nhìn ngang, bởi nhìn lên cao lại thấy tức mắt, vì sự lộn xộn vô lối của kiến trúc thời mở cửa, những đường dây điện thoại chằng chịt, những dàn ăngten tua tủa như chọc nát bầu trời, nhìn thấp xuống một chút là mê hồn trận biên quảng cáo chữ Tây to hơn chữ ta, cái to cái nhỏ, cái dựng đứng, cái nằm ngang… màu sắc chói chang rực rỡ. Thế nhưng nếu quên đi cái tầm cao ấy, chỉ nhìn ngang thôi hay nhìn xuống mặt đất, ta lại như được sống trong cái thế giới thực của mình. Những con phố của Hà Nội xưa vẫn thế, chẳng to ra mà cũng chẳng bé đi, cái mạng lưới đường ô cờ mà người Pháp đã vạch ra đầu thế kỷ trước vẫn như thế, cho dù đường đã được trải nhựa thêm bao lần, vỉa hè đã được đào lên lấp xuống bao lần để đặt đường ống thoát nước…Và trên tất cả, nhịp sống sôi động của khu Kẻ chợ xưa vẫn như còn hiển hiện đâu đây. Đường phố vẫn ồn ào từ sáng sớm đến đêm khuya. Đi trong phố Hàng, ta vẫn bắt gặp những người phụ nữ của Tú xương tần tảo quảy đôi quang gánh trên vai đi bán dạo, từ nồi bắp ngô luộc, khoai luộc đến xôi vò, chè đường. Cuộc sống là vĩnh cửu, con người ở đây sống và hoạt động hồn nhiên như tự thân nó phải thế. Đi trên phố cổ Hà Nội, ta có thể rất dễ dàng ngồi vào một góc nào đấy trong nhà, hay ngôi vỉa hè để mà nhấm nháp ly ca phê đặc sánh hay thưởng thức một chén rượu Vân chính hiệu với mực nướng than hoa, chấm tương ớt. Bây giờNội đổi thay nhiều, cách sống, lối sống cũng thay đổi nhiều. Nhưng hình như có một sự bảo thủ đến kỳ lạ là lối sống ở khu phố cổ hầu như ít biến đổi. Cái ồn ào, nào nhiệt ở đây không nao nào trong thành phố này có được Dẫukiến trúc hiện hữu của khu phố chẳng còn mấy cái là cổ nhưng không gian đo thị cổ, lối sống của một thời kẻ chợ vãn còn rõ nét lắm, sống động lắm. Giáo sư người Đức Arnold Koerte khi nghiên cứu hoạt động xã hội của khu phố cổ đã phải thốt lên: “Thành phố này không cần đến bất cứ một mẹo vặt nào để tái tạo lịch sử như người ta vẫn làm ở nhiều nơi (Singapore và một số nơi khác…). Đó là tác phẩm của những nhà quy hoạch nửa mùa, những người đã chế nhạo bảo tồn đô thị cính cống”, rồi ông khôi hài dẫn một câu của chúa Beng Huat: “một ngày nào đó có thể chúng ta sẽ phải trả tiền cho những con người trên đường phố để hàng ngày họ tái hiện lại lịch sử”. Vâng, xin cảm ơn tình cảm của ông với khu phố cổ Nội. Nhưng thưa ông, tại khu phố cổ này người dân chúng tôi vẫn sống, vẫn tồn tại và buôn bán trên cả vỉa hè cũng chẳng phải là để “tái hiện lịch sử” đâu mà đơn giản chỉ là cách sống ấy đã trở thành truyền thống, trở thành nét văn hóa của người Tràng An hôm nay rồi. Còn tôi, tôi gọi đó là “Hồn phố”.

Sáng chủ nhật, trời se lạnh và hanh hao nắng. Tôi ngồi bên ly cà phê ở quán Hỏi trên đường Bà Triệu cùng một người bạn ở báo Việt Nam. Tôi đưa anh xem bài viết của tôi loanh quanh về vấn đề đô thị. Đọc xong anh khen, nhưng bỗng anh nhướng mắt hỏi: Này ông, có “hồn quê”, “hồn phố” thế có “hồn khu đô thị mới” không? Tôi hơi ngớ ra, rồi cười xòa… Chợt vang lên đâu đây giọng ca trầm ấm đến nao lòng của ca sĩ Trung Đức “Ngõ nhỏ, phố nhỏ nhà tôi ở đó/ Đêm lặng nghe trong gió tiếng sông Hồng thở than…”. Ngoài kia vẫn nắng hanh hoa và dòng người xe một chiều vẫn không ngừng tuôn chảy…

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc: