Bản thể luận Huxéc với chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm I.Cantơ

06:49 CH @ Thứ Hai - 18 Tháng Chín, 2006

Bản thể luận Huxéc cho thấy mối liên hệ khăng khít nhất của triết học Cantơ nói chung và chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Cantơ nói riêng với triết học phương Tây hiện đại, đồng thời nó cũng làm bộc lộ rõ vai trò và đóng góp thực sự của triết học Cantơ đối với "cuộc cách mạng bản thể luận" trong triết học phương Tây hiện đại. Đây thực chất là vấn đề "tái chú giải" triết học Cantơ trong văn cảnh cần phải xác định lại đối tượng và phương pháp của triết học trong sự khác biệt của nó so với khoa học tự nhiên...

Huxéc đã hiểu Cantơ và triết học tiên nghiệm Cantơ như thế nào, khi ông quyết định xây dựng bản thể luận thay thế cho triết học truyền thống nhờ dựa vào và đồng thời khắc phục chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Cantơ?

Bản thể luận thường được hiểu là học thuyết về những tính quy định chung nhất của tồn tại, những tính quy định đóng vai trò là cơ sở của thực tại kinh nghiệm và của tính đa dạng hiện thực của thế giới. Khái niệm này thường được sử dụng chính là theo nghĩa đó trong truyền thống triết học gắn liền với việc xây dựng các hệ thống triết học tự nhiên có kỳ vọng trở thành học thuyết về thế giới một cách không phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể của quá trình nhận thức và năng lực nhận thức của bản thân con người.

Vậy tại sao khi tự đem đối lập mình và các hệ thống triết học tự nhiên ấy, bản thể luận Huxéc cũng có kỳ vọng trở thành một học thuyết như vậy? Huxéc đã hiểu bản thể luận là gì? Để trả lời cho vấn đề này chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh triết học đã sản sinh ra bản thân chủ nghĩa tiêm nghiệm Cantơ mà Huxéc coi là cơ sở của bản thể luận của ông.
Chủ nghĩa duy lý thường tự đặt ra cho mình nhiệm vụ đạt tới tri thức tuyệt đối tới các chân lý phổ biến và tất yếu với tư cách cái phản ánh tồn tại. Luận điểm xuất phát của chủ nghĩa duy lý là: tư duy đồng nhất với tồn tại về mặt nội dung, còn cơ sở của tồn tại là các quy luật logic chi phối nhận thức chân thực. Luận điểm này đã trở thành quan điểm nền tảng của chủ nghĩa phiếm logic - một hình thức cực đoan trong việc thừa nhận sự đồng nhất giữa bản thể luận và logic học.

Theo chủ nghĩa duy lý, ngoài nó ra, mọi khoa học khác đều phải tuân thủ các chân lý đã được hình thành trong hệ thống triết học tự nhiên, phải căn cứ vào những chân lý này và cung cấp những khẳng định kinh nghiệm cho lĩnh vực tri thức tuyệt đối đã được hình dung từ trước. Thế nhưng, khoa học và hiện thực kinh nghiệm lại thường chỉ ra tính chất giáo điều và ảo tưởng trong những luận điểm như vậy của chủ nghĩa duy lý. Một mặt, chủ nghĩa duy lý không thể giải thích được tính đúng đắn của việc nó chuyển các quy luật của logic học sang bản thân tồn tại. Mặt khác, nó không thể giải quyết được vấn đề về mối quan hệ giữa thế giới siêu cảm tính (logic), các chân lý bất di bất dịch và hiện thực kinh nghiệm - cái mà theo nó, không thể dùng phép diễn dịch để giải thích và tách biệt các sự kiện khoa học. Tính chất tư biện và kỳ vọng xây dựng khoa học của "mọi khoa học" của chủ nghĩa duy lý đã bị phá sản cùng với quá trình phát triển của bản thân khoa học.

Trái ngược với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa kinh nghiệm luôn cố hòa nhịp với sự phát triển của bản thân khoa học bằng cách hướng tới một số nguyên tắc chung của tồn tại dựa trên những dữ kiện của các khoa học thực nghiệm. Xét về phương diện này thì bản thể luận cần phải căn cứ trên những dữ liệu do khoa học thực nghiệm ung cấp, còn nguyên tắc đồng nhất giữa tư duy và tồn tại được kiên định dựa trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa. Tuy nhiên, bất chấp tính hữu ích của định hướng duy thực này, chủ nghĩa kinh nghiệm vẫn không hoàn thành được một yêu cầu quan trọng đối với nghiên cứu triết học thời Cận đại - đạt tới các chân lý khách quan (phổ biến và tất yếu). Trái ngược với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa kinh nghiệm thường xuyên thực hiện theo hướng ngược lại - từ hiện thực kinh nghiệm và lĩnh vực cái phổ biến, - định hướng mà xuất phát từ đó, chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa hoài nghi đã khẳng định hoàn toàn không có các chân lý như vậy hay lý tính con người không thể đạt tới chúng.

Chúng tôi muốn lưu ý rằng, bậc thầy của Huxéc trong lĩnh vực bản thể luận là Brentanô cũng đã phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh nghiệm. Theo Brentanô, chỉ có thể đạt tới tri thức tất yếu, hiển nhiên nhờ phân tích đời sống tâm lý cụ thể của ý thức với điều kiện phân biệt rõ hành vi trực giác bên ngoài (hướng vào khách thể nằm ngoài chủ thể) và hành vi trực giác bên trong (hướng vào việc vạch ra các cơ cấu nhận thức của ý thức) . Trong trường hợp trực giác bên ngoài, theo Brentanô, chân lý với tư cách thực tại tất yếu, hiển nhiên là cái không đạt tới được vì con đường nhận thức này không đưa tới việc khắc phục mâu thuẫn "bản chất - hiện tượng". Chân lý chỉ có thể đạt tới được trong trường hợp thừa nhận xuất phát điểm là trực giác bên trong, vì bản thân nó là chân lý tự nó, còn tính hiển nhiên thì lại dựa vào chính điểm này. Brentano cho rằng, ưu thế của cách tiếp cận như vậy là ở chỗ, nó hướng vào cái vốn có trong chúng ta, cho phép chúng ta nhìn nhận ý thức từ bên trong. Đây chính là quan niệm mà Huxéc đã phát triển tiếp theo cách của mình.
Huxéc cho rằng, bất chấp toàn bộ sự đối lập về định hướng triết học, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm vẫn đi theo một hướng chung - đó là dự định không tính đến tính chủ quan con người, ảnh hưởng của các cơ chế nhận thức và đời sống ý chí - tình cảm của con người trong nhận thức. Cả chủ nghĩa duy lý lẫn chủ nghĩa kinh nghiệm đều coi nhận thức được giải phóng hoàn toàn khỏi những hạn chế và ảnh hưởng chủ quan tất yếu sẽ dẫn tới chân lý với tư cách cái đồng nhất với tồn tại. Và, triết học phân tích những chân lý như vậy phải trở thành bản thể luận, hay học thuyết về thế giới một cách không phụ thuộc vào bản thân chủ thể nhận thức.

Theo Huxéc, triết học tiên nghiệm Cantơ ra đời đã cho thấy rõ dự định của cả chủ nghĩa duy lý lẫn chủ nghĩa kinh nghiệm đều là vô căn cứ, bởi chúng đã bỏ qua tính chủ quan trong nhận thức. Cantơ đã thay thế bản thể luận tư biện bằng triết học tiên nghiệm. Về thực chất, sự thay thế này có nghĩa là không thể bỏ qua các năng lực nhận thức của con người, rằng các năng lực nhận thức ấy tất yếu để lại dấu ấn của chúng ở bản thân quá trình nhận thức và ở kết quả nhận thức. Theo Cantơ, chân lý nhận được trong quá trình nhận thức không phải là chân lý ở bên ngoài khuôn khổ của bản thân kinh nghiệm nhận thức. Chính vì vậy mà, một mặt, không thể có bản thể luận tư biện, tức bản thể luận có kỳ vọng đạt tới thế giới tự nó chỉ dựa trên lý tính mà không tính đến kinh nghiệm, mặt khác, vì kinh nghiệm cảm tính với tư cách cơ sở của mọi nhận thức là cái mang tính chủ quan về nguyên tắc, nên không thể có thứ chủ nghĩa kinh nghiệm mà dường như có thể đạt tới "vật tự nó" chỉ dựa trên cơ sở làm sáng tỏ và chuẩn xác hóa dữ liệu cảm tính. Tuy nhiên Cantơ lại cho rằng, như vậy không có nghĩa là không thể có bản thể luận. Bản thể luận là cái có thể có nhưng chỉ với tư cách là học thuyết trùng khít với nhận thức luận, hay học thuyết làm sáng tỏ những thành tố đầu tiên, những điều kiện chủ yếu điều kiện của nhận thức tiên nghiệm.
Về luận điểm này của Cantơ, Huxéc cho rằng, bản thân việc sử dụng khái niệm "bản thể luận" trong cách đặt vấn đề của Cantơ là đúng hay sai - điều đó là không quan trọng, mà điều quan trọng là ở tu tưởng về bản thể luận như định hướng phản tư vào "cái khởi thuỷ" trong ý thức mà ông ta đã đưa ra. Đó là bản thể luận không những hướng đến việc vạch ra những điều kiện khởi thuỷ cho sự hoạt động của các hành vi nhận thức, mà còn hướng đến việc giải thích rõ những cơ sở và cội nguồn của toàn bộ kinh nghiệm về đời sống ý thức. Khái niệm "bản thể luận" cũng đã thể hiện với chính nghĩa như vậy trong triết học hiện tượng học - hiện sinh.

Thế nhưng, để hiểu Huxéc đã "chỉnh lý" Cantơ và phát triển bản thể luận hiện tượng học của ông như thế nào, trước hết chúng ta hãy trở lại với đánh giá của ông về chủ nghĩa tiên nghiệm Cantơ.

Theo Huxéc, chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm là đỉnh cao của triết học duy lý cổ điển, và việc thừa nhận nó đã trở thành thành tố mang tính xây dựng của tư tưởng bản thể luận phương Tây hiện đại. Nhưng, đến lượt mình, bản thân việc thừa nhận ấy lại được quy định bởi khả năng mà chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm này cho phép xem xét vấn đề chủ thể và tính chủ quan trên bình diện bản thể luận.

Với quan điểm đó, trước hết, Huxéc buộc tội toàn bộ triết học duy lý truyền thống về việc đã “nhận thức luận hóa triết học", đã thổi phồng hệ vấn đề nhận thức lý luận và cách tiếp cận thuần tuý tri thức luận, về việc nó xem xét khái niệm "chủ thể" và tính tích cực của con người chủ yếu trên phương diện nhận thức luận.

Vậy, quan điểm của Cantơ với tư cách người sáng lập chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm trong vấn đề này là gì?

Khi nhận thấy sự tồn tại của nhiều quan điểm bất đồng trong việc giải quyết các vấn đề triết học nảy sinh do không nghiên cứu một cách có hệ thống bản chất của nhận thức, các năng lực nhận thức, của chủ thể, và điều chủ yếu là không xác định giới hạn chân thực của nhận thức, Cantơ cho rằng, việc xác định giới hạn này trước hết là ở việc bác bỏ kỳ vọng của lý tính tư biện nhằm nhận thức những thực tại ở bên ngoài kinh nghiệm của chúng ta.
Tuy nhiên, ở đây, không đi sâu vào học thuyết Cantơ, chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng, triết học hiện đại đã tính đến cách đặt vấn đề này của Cantơ và cho rằng cách giải quyết vấn đề của Cantơ là không thoả đáng. Bản thân Cantơ nhấn mạnh vấn đề có thể nhận thức được cái gì và như thế nào nhờ lý trí và lý tính, chứ không phải vấn đề bản thân năng lực nhận thức là gì. Về quan điểm này của Cantơ, A.Sôpenhauơ đã nhận xét một cách mỉa mai như sau: "Chủ thể - đó là cái nhận thức vạn vật nhưng lại không được ai nhận thức".

Vậy Huxéc đã chỉnh lý Cantơ như thế nào?

Theo Huxéc, quan điểm của Cantơ về ý thức tiên nghiệm vừa biểu thị những điều kiện của nhận thức, vừa biểu thị sự cấm bản thể luận hóa những khái niệm tiên nghiệm. Hêghen đã loại bỏ cấm đoán này khi biến tư duy thành bản chất của thế giới Khi tiếp nhận sự cấm đoán này của Cantơ: Huxéc không quan niệm "cái tôi", ý thức, tính chủ quan là bản chất của thế giới và của ý thức, mà xem chúng như các khái niệm biểu thị điều kiện nhận thức. Nhưng, chính ở đây, đã nảy sinh một vấn đề nan giải mà Cantơ đã bỏ qua, còn Huxéc thì cố giải quyết. Đó chính là vấn đề bước chuyển từ các khái niệm tiên nghiệm sang bản chất của ý thức và của thế giới bị cấm (điểm chung của Cantơ và Huxéc), bởi chúng được sử dụng để nhận thức những gì đứng đối lập với chủ thể, với tính chủ quan và được đem lại cho con người thông qua chính tính chủ quan ấy và các hình thức của nó. Nếu chủ thể muốn nhận thức bản thân tính chủ quan đang nhận thức, thì tất sẽ xa vào cái vòng luẩn quẩn là: điều kiện để nhận thức tính chủ quan lại chính là tính chủ quan, nói cách khác, bản thân khách thể nhận thức lại là điều kiện để nhận thức khách thể ấy. Vậy, phải chăng nhận thức tính chủ quan là không thể? Câu trả lời cho vấn đề này đánh dấu bước ngoặt của triết học phương Tây hiện đại trong thái độ đối với Cantơ, cũng như trong việc xác định lại bản chất và phương pháp của triết học.

Ngay cả Bécxông cũng trách cứ Cantơ ở chỗ Cantơ không đoạn tuyệt được vôi chủ nghĩa nhận thức luận truyền thống, khi giải quyết mọi vấn đề triết học dựa trên hệ chuẩn khách - chủ thể, tức là bằng các phương pháp của khoa học tự nhiên. Theo ông, triết học có nhiệm vụ mô tả tính chủ quan nhờ trực giác trí tuệ. Sau Bécxông, Huxéc cũng đã nói tới việc mô tả tính chủ quan (ý thức tự nó như điều kiện của nhận thức và như một thực tại đặc biệt), nhưng ông muốn giữ lại tính khách quan (khoa học) của triết học. Do vậy, một lần nữa, ông lại quay về với chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Cantơ.

Theo Huxéc, đóng góp chính của chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Cantơ là ở chỗ, Cantơ trước sau chỉ xem xét thế giới thông qua các hành vi và các hình thức của tính chủ quan con người. Tính chủ quan này chính là cái mà chỉ nhờ đó, thế giới mới được đem lại cho con người. Do vậy, theo Huxéc, việc xem xét thế giới ở bên ngoài mối liên hệ (tương liên) với tính chủ quan là một điều nhảm nhí. Thực ra thì sự nhảm nhí này chỉ có trong triết học, bởi tâm thế tự nhiên (ý thức hàng ngày và đặc biệt là khoa học) có thể và cần phải xem xét thế giới như vậy, nhưng với triết học thì trước hết, nó cần phải làm sáng tỏ tính được đem lại, tính hiện diện của thế giới trong ý thức và các hành vi của nó. Đây cũng chính là sự khác biệt căn bản của triết học so với các khoa học khác. Triết học không giành lấy một bộ phận xác định của thế giới để nghiên cứu, mà nó có một lập trường, một nhãn quan, một cái nhìn đặc biệt của mình về thế giới. Nhưng, nếu lập trường của triết học là ở sự định hướng nhãn quan đặc biệt - xem xét thế giới như cái được đem lại trong các hành vi và các hình thức của ý thức, thì ý thức và tính chủ quan đối với triết học không phải là một bộ phận của thế giới. Nói cách khác, đối với triết học, ý thức không nằm trong thế giới như một khách thể ở bên cạnh các khách thể khác, ý thức là một thực tại mà thế giới được đem lại cho con người được các hình thức của nó.

Vậy, phải chăng đây là sự tái hiện cách đặt vấn đề của Cantơ?

Chính Cantơ cũng đã từng khẳng định, trái ngược với việc siêu hình học tư biện tự đặt ra cho mình mục đích làm sáng tỏ bản chất của thế giới, ông chỉ đặt ra cho mình một mục đích khiêm tốn hơn là làm sáng tỏ việc chủ thể nhận thức có thể nhận thức được cái gì và nhận thức như thế nào, tức cái gì hiện ra với ý thức và hiện ra như thế nào với một điều kiện quan trọng - cái hiện ra đó phải đáp ứng được tiêu chí về tính khách quan và xác thực. Theo chúng tôi, sự phụ thuộc của Huxéc vào Cantơ ở đây là rất rõ, song giữa hai nhà triết học này cũng có những "bất đồng" không nhỏ.
Sự bất đồng ấy thể hiện ở chỗ, nếu Cantơ cố xem xét các phương tiện nhận thức của tính chủ quan, thì Huxéc lại muốn hiểu và mô tả bản thân tính chủ quan như một thực tại đặc biệt. Nói cách khác, cùng đề cập tới tính chủ quan, nhưng lập trường của Cantơ là lập trường nhận thức luận, còn lập trường của Huxéc là lập trường bản thể luận. Do vậy, về thực chất, nếu Cantơ đã minh biện cho sự tồn tại của khoa học tự nhiên (cụ thể là cơ học Niutơn) nhờ "phiên dịch" bản thân hệ thống khái niệm (tức tri thức) khoa học tự nhiên đương thời sang ngôn ngữ triết học (khoa học tự nhiên và toán học có thể như thế nào - vấn đề được Cantơ đặt ra), thì Huxéc lại chuyển hoàn toàn sang vấn đề quyền tồn tại của triết học (đối tượng và phương pháp) như một lĩnh vực tri thức nhân văn đặc biệt nhờ tiếp cận với nó từ phương diện văn hóa học (thể hiện rõ nhất qua khái niệm "thế giới sống"). Chính từ phương diện bản thể của mình, tính chủ quan ở Huxéc thể hiện ra như là cơ sở thứ nhất tạo ra nghĩa ban đầu cho mọi hình thức hoạt động của con người. Nói cách khác, tính chủ quan (tính quy định văn hóa của tồn tại người) thể hiện ra là cái tuyệt đối mà triết học cần phải xuất phát từ đó để giải thích vạn vật, kể cả và chủ yếu là bản thân mình.
Có thể coi sự phụ thuộc nêu trên của Huxéc vào Cantơ là sự phụ thuộc về phương diện triết học lý thuyết. Nhưng, chúng ta còn nhận thấy một sự phụ thuộc cĩmg ở mức độ như vậy thể hiện trên phương diện triết học thực tiễn.

Cantơ cho rằng, nhận thức của con người diễn ra như một quá trình sắp xếp dữ liệu cảm tính nhờ các hình thức tiên nghiệm của lý trí. Nhưng, theo ông, còn có một lĩnh vực kinh nghiệm của con người mà dữ liệu về nó thì không một cảm tính nào có thể cung cấp - đó là lĩnh vực đạo đức hay “lý tính thực tiễn". Các đối tượng của lĩnh vực này hoàn toàn do con người tạo ra, vì chúng không hiện diện dưới bất ký hình thức nào. Cantơ viết: "Việc sử dụng lý tính về mặt lý luận chỉ có quan hệ với các đối tượng của năng lực nhận thức. Vấn đề sử dụng lý tính về mặt thực tiễn lại khác. Lý tính ở đây quan tâm chỉ tới những cơ sở mang tính quyết định của ý chí, mà ý chí - đó là năng lực hoặc tạo ra các đối tượng phù hợp với biểu tượng, hoặc tự quy định mình để tạo ra chúng, tức là nó tự quy định tính nhân quả của mình". Trong lĩnh vực này, con người thể hiện là cá nhân tự do, tự quyết, tự "lập pháp", và đối với nó, câu trả lời cho câu hỏi "Tôi cần phải làm gì?" không phụ thuộc vào câu trả lời cho câu hỏi "Tôi có thể biết gì?".

Huxéc đã cố gắng nghiên cứu lĩnh vực này không phụ thuộc vào các vấn đề nhận thức lý luận. Mặc dù vậy, theo chúng tôi, ở đây không nên nói tới việc phát triển hay tái hiện cách đặt vấn đề của Cantơ, bởi triết học hiện đại đã chuyển hẳn từ bản thể luận nhận thức sang bản thể luận văn hóa. Chúng ta có thể chỉ ra những sự khác biệt quan trọng trong trường hợp này. Chẳng hạn, khi nghiên cứu đạo đức học, Cantơ quan tâm đến hành vi theo bổn phận - con người cần phải hành động như thế nào với kỳ vọng trở thành con người có đạo đức ông đề ra cho hành vi như vậy ít nhất hai điều kiện - tính phi vụ lợi (không phải vì một cái gì đó, mà quy tắc đạo đức tự nó đòi hỏi phải như vậy) và tính phổ biến (quy tắc đạo đức biểu thị bản tính con người tự nó, từ đó là tính bắt buộc chung của các yêu cầu đạo đức).

Với nhiệm vụ xây dựng bản thể luận mới thay cho triết học tự nhiên cổ điển, Huxéc đã không quan tâm tới phương diện tình thái của vấn đề: không phải cái gì hợp bổn phận và cái gì đáng nguyền rủa, mà là cái gì đang tồn tại (bản chất con người không ác cũng không thiện, nó trước hết là cái tồn tại tự nó và bản thể luận có nhiệm vụ mô tả nó tồn tại như thế nào). Bổn phận, đạo đức, cái thiện, cái ác… tất cả đều là những hiện tượng phái sinh, là những hình thức xác định của sự hiện thực hóa tồn tại người. Bản thể luận có nhiệm vụ mô tả tồn tại người trước khi nó thể hiện dưới các hình thức hoạt động và tư duy khác nhau của con người, tức là trước khi con người trở thành chủ thể, còn thế giới thể hiện ra với con người như một khách thế. Gắn liền với sự tái định hướng về mặt đối tượng này là những biến đổi về mặt phương pháp luận. Đây cũng là sự khác biệt căn bản của Huxéc so với Cantơ: Huxéc cấm việc viện dẫn cái phổ biến như tiêu chí và cơ sở của cái có tính người trong con người khi mô tả tồn tại người.

Như vậy, xuất phát từ chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của Cantơ, Huxéc đã đi đến ý định xây dựng một hình thức hoàn toàn mới của triết học - bản thể luận văn hóa. Thực chất của bản thể luận Huxéc là thử nghiệm tách biệt và làm sáng tỏ một lĩnh vực của tính chủ quan người mà vốn là cơ sở bản thể của chủ thể, nhưng đồng thời đại không phải là đối tượng của nhận thức (theo nghĩa khoa học) mà là đối tượng "thực tiễn". Tính chủ quan con người “tồn tại" một cách hoàn toàn đặc biệt mà về thực chất, không bao giờ được nắm bắt như đối tượng của nhận thức. Thêm vào đó, phương diện bản thể luận của tính chủ quan ấy cũng không phải là một cái có sẵn, bộ lộ ra trong thế giới như các khách thể và các quá trình của thế giới bên ngoài. Tính chủ quan ấy được Huxéc hiểu là thực tại luôn hiện diện trong mọi hành vi con người nhưng lại không thể tách ra khỏi những hành vi này, nó tham gia vào việc tạo ra bất kỳ sản phẩm nào của hoạt động người nhưng lại không thể quy về những sản phẩm đó, nó bao giờ cũng là một khả năng nhưng lại không dừng lại ở một sự hiện thức hóa nào cả, nó là tính cởi mở với mọi hình thức và phương thức thực tồn nhưng lại không do những hình thức, phương thức này định trước và quy định.

Từ quan niệm như vậy về đối tượng như vậy của triết học, chúng ta có thể nêu vắn tắt một số luận điểm cơ bản của bản thể luận Huxéc trong sự khác biệt với triết học tiên nghiệm Cantơ. Thứ nhất, không thể hiểu tính chủ quan con người như một bộ phận của thế giới và qua đó, được giải thích thông qua bản thân thế giới ấy. Tồn tại của tính chủ quan này, hay tồn tại người đích thực, là hoàn toàn đặc biệt và không thể tách ra từ các quy luật của thế giới. Thứ hai, tính chủ quan con người đồng thời cũng không phải là bản chất hay thực thể lý tưởng, bao hàm trong nó mọi đặc tính của chính nó và được triển khai trong một vận động nào đó. Thứ ba, với tư cách đối tượng thực tiễn, tồn tại người, nếu sử dụng thuật ngữ của Cantơ, là không thể thiếu quan niệm của con người về nó và do vậy, sự thấu hiểu tồn tại người là một trong các thành tố cấu thành nó. Luận điểm này có một sắc thái đặc biệt trong bản thể luận Huxéc: sự thấu hiểu (chứ không phải nhận thức, vì tồn tại người không phải là một thực thể mà từ đó có thể xây dựng tồn tại chân thực của nó nhờ dựa trên tri thức về những đặc điểm của nó) đúng tính chất đặc thù của tồn tại người là điều kiện để cứu rỗi cái có tính người trong một thế giới không có tính người. Các luận điểm này, về thực chất, là các cách biểu thị khác nhau quan niệm chống tự nhiên chủ nghĩa và chống thực thể chủ nghĩa về tính chủ quan trong bản thể luận Huxéc. Đây cũng là một bước tiến đáng kể của Huxéc so với triết học tiên nghiệm Cantơ. Do vậy, chúng ta cần phải nói cụ thể hơn về bước tiến này.

Vấn đề là ở chỗ, sau Cantơ, Huxéc cũng bác bỏ tư tưởng về bản thể luận với tư cách khoa học phổ quát, khách quan về thế giới (đối với Cantơ thì siêu hình học với tư cách triết học lý luận là không thể giống như khoa học tự nhiên lý thuyết). Bản thể luận được xây dựng dựa trên các cơ sở kinh nghiệm nhờ sử dụng các phương pháp quy nạp, theo Huxéc, là một điều nhảm nhí, vì nó bộc lộ sự không có khả năng thâm nhập vào tính đặc thù của đời sống tinh thần. Huxéc phân định rõ bản thể luận của mình với các khoa học toán - lý, cũng như với bản thể luận tinh thần được xây dựng giống như toán học. Theo ông, các bản thể luận như vậy chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tâm thế tự nhiên (kể cả triết học Cantơ cũng chịu chung lời trách cứ như vậy, và điều này là xác đáng).

Bản thể luận Huxéc là chủ nghĩa tiên nghiệm được hiểu như một dụ định nhằm hướng nhãn quan của nhà nghiên cứu vào các có nguồn tối hậu (văn hóa) của nhận thức tức là vào việc chủ thể tự ý thức về bản thân mình, về đời sống nhận thức của mình, là dự định nhằm tuyên bố một hình thức mới của tính khoa học, hình thức căn cứ trên sự thấu hiểu bản thân mình của chủ thể như tính chủ quan đang nhận thức với tư cách cơ sở khởi thuỷ của mọi kết cấu ngữ nghĩa khách quan

Huxéc coi bản thể luận của ông là một khoa học tiên nghiệm vừa phổ quát, vừa cụ thể. Những vấn đề làm cho ông quan tâm cũng đã được triết học cổ điển, đặc biệt là Cantơ, quan tâm nhưng không nhận được lời giải đáp thỏa đáng. Giải quyết chúng, Huxéc đi đến kết luận cần phải thay đổi căn bản quan niệm về bản thân chủ thể của nhận thức và cùng với đó, là quan niệm về ý thức. Theo ông, không thể xây dựng được bản thể luận, nếu chỉ thừa nhận địa vị nhận thức luận của chủ thể nhận thức và không đặt ra vấn đề về tồn tại của chủ thể đó, nói cách khác, nếu xem xét hoạt động nhận thức của ý thức và bản thân sự tồn tại của nó một cách biệt lập, chứ không phải trong mối liên hệ khởi thuỷ và khăng khít của chúng. Theo Huxéc, ý thức phải mang tính bản thể và do vậy, cần phải gán cho nó địa vị bản thể luận, còn bản thân tồn tại cần được biến thành sự tương liên của ý thức, nếu không thì không thể có một bản thể luận nào cả, vì bản thể luận không quan tâm tới thế giới tự nó, mà chỉ quan tâm tới thế giới xung quanh được đem lại trong ý thức (và lẽ nào chúng ta còn biết tới thế giới nào khác?!). Như vậy, đối với Huxéc, bản thể luận đích thực chỉ có thể là bản thể luận ý thức, là bản thể luận thể hiện như quá trình mô tả những nội dung đối tượng của ý thức, như quá trình kiến tạo những mối quan hệ về ngữ nghĩa của thế giới. Đối tượng và ý thức phải thống nhất ngay từ đầu, phải được mô tả như những cái có sự thống nhất như vậy. Đây chính là nội dung của học thuyết về tính chủ quan tiên nghiệm (tính có ý hướng, kiềm chế, quy giản…). Huxéc đã nhận thấy trong sự tồn tại của nó những đặc điểm mới mà chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Cantơ đã không nhận thấy. Vậy các đặc điểm đó là gì?

Theo Huxéc, triết học tiên nghiệm Cantơ đã xuất phát từ luận điểm cho rằng quá trình tư duy không được định trước bởi vị trí mà trong đó, nó diễn ra. Do vậy, Cantơ nói chung đã không đặt ra vấn đề về "cái Tôi khác", vì cái Tôi mà ông nói tới có quan hệ với một cũng như bất kỳ chủ thể nào khác và do đó, ông không hỏi: ai tư duy. Cantơ tin tưởng vào khả năng và sự cần thiết phải giải thích thế giới từ lập trường của một người quan sát tuyệt đối nào đó bên ngoài thế giới. Chủ thể nhận thức này của triết học Cantơ là bất biến về mặt thời gian và không gian. Điều đó cho thấy, Huxéc là nhà triết học đầu tiên đã thay đổi triệt để quan niệm như vậy về địa vị và các khả năng của chủ thể nhận thức. Khác với Cantơ, ông chỉ ra tính có can dự về nguyên tắc của tính chủ quan vào tồn tại, tính ràng buộc của nó với vị trí, tính hữu hạn và nhất thời của nó. Đối với Huxéc thì chủ thể của nhận thức đồng thời cũng là chủ thể của tồn tại, vì bản thân tư duy được ông xem như hành vi tồn tại. ý thức bao giờ cũng tồn tại và hoạt động trong thế giới và do vậy, thứ nhất, bao giờ cũng bị hạn chế bởi tầm nhìn và khả năng bao quát của nó, thứ hai, cái Tôi đang tư duy không thể giải phóng khỏi những điều kiện chủ quan của cá nhân.

Như vậy, đối với Huxéc, tư duy bao giờ cũng diễn ra tại một địa điểm nhất định và đưa trên kinh nghiệm trước đó của ý thức. Hiện tượng học có thể trở thành bản thể luận vì nó đặt ra cho mình mục đích đạt tới sự hiện hữu của tồn tại trong ý thức đang hiện diện trong bản thân tồn tại. Khác với định hướng triết học tự nhiên của Cantơ, sự đặc thù của cách tiếp cận hiện tượng học chính là ở chỗ, nó không hoà tan ý thức vào tồn tại, không đặt ý thức vào một dãy cùng với những quá trình tự nhiên và khẳng định rằng chỉ có thể nói về tồn tại như về một sự kiện của ý thức. Hiện tượng học chỉ đề cập tới các kết cấu của tồn tại thể hiện trong và thông qua ý thức. Nói cách khác, theo Huxéc, đời sống có ý hướng của ý thức chính là thực tại đích thực đối với con người, còn các kết cấu của ý thức chính là các kết cấu kiến tạo của thực tại này, tức là của lĩnh vực tồn tại người. Từ đó suy ra rằng, khi mô tả các kết cấu ấy, hiện tượng học đồng thời cũng là bản thể luận.

Theo đó, có thể nói rằng, bước tiến lớn của bản thể luận Huxéc so với chủ nghĩa tiên nghiệm Cantơ chính là ở chỗ, Huxéc lần đầu tiên đã cố gắng khám phá ra một cách tiếp cận đặc thù triết học - bản thể luận văn hóa, tức là cố vạch ra và mô tả các cội nguồn văn hóa của tồn tại người. Bất kỳ hoạt động người nào, kể cả hoạt động nhận thức, đều diễn ra trên cơ sạ những tính quy định văn hóa của tồn tại người và chính chúng đóng vai trò là cơ sở bản thể của sự hiện sinh người, đồng thời thông qua đó, thế giới mới được đem lại cho con người và do vậy, bức tranh về thế giới của con người chỉ cô thể được làm sáng tỏ nhờ phân tích các cơ sở bản thể văn hóa ấy của tồn tại người. Hơn nữa, bản thể luận Huxéc đặt ra cho mình nhiệm vụ khắc phục sự tha hóa của con người khỏi thế giới nhờ chỉ ra rằng, con người ngay từ đầu đã thống nhất với thế giới, trong khi các khoa học tự nhiên và triết học định hướng vào khoa học tự nhiên lại cố loại trừ tính chủ quan này, cố giải phóng khỏi nó. Không những thế giới mà toàn bộ văn hóa được bản thể luận Huxéc vạch ra như kết quả hoạt động kiến tạo của tính chủ quan, vì toàn bộ thế giới (hiện thực và lý tưởng) là "tồn tại của thế giới cho chúng ta" mà "cái Tôi đang tồn tại" được thể hiện ra với tư cách nguồn gốc khởi thuỷ của nó. Cách tiếp cận bản thể luận văn hóa của Huxéc mở ra một triển vọng mới cho việc giải quyết vấn đề xác định lại đối tượng và phương pháp của triết học mà trong thời đại của mình, Cantơ đã đặt ra và cũng đã chỉ ra sự bế tắc của cách giải quyết định hướng vào khoa học tự nhiên - đó là lĩnh vực bản thể luận về tồn tại người hay nhân học văn hóa. Và, cũng chính với cách tiếp cận như vậy mà hiện tượng học Huxéc đã trở thành một trong các cơ sở quan trọng nhất của toàn bộ triết học phương Tây hiện đại, đã thâm nhập vào vô số lĩnh vực tri thức nhân văn, còn chủ nghĩa tiên nghiệm. Cantơ được thừa nhận là một trong các cội nguồn của triết học phương Tây hiện đại.

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Sự hình thành bản thể luận văn hóa

    10/11/2014TS. Đỗ Minh HợpCó thể phân biệt ba giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của bản thể luận - bản thể luận tự nhiên (cổ đại), bản thể luận nhận thức (cận đại) và bản thể luận văn hoá (hiện đại). Không có ý định đi sâu vào đề tài này, chúng tôi chỉ muốn nêu bật sự khác nhau cơ bản giữa ba hình thức này của bản thể luận...
  • Chủ nghĩa hiện sinh

    13/01/2006Điều đầu tiên cần lưu ý về các triết gia hiện sinh là khi họ dùng từ “hiện sinh” họ muốn nói tới sự hiện tồn của con người.Họ không quan tâm gì đến sự tồn tại của những cái bàn và những cái ghế, những ngôi sao và các nguyên tử, hoặc nhiều vật thể khác. Chúng ta cũng phải lưu ý rằng khi đề cập đến sự hiện tồn của con người là họ muốn nói đến sự hiện hữu của từng cá thể đặc thù, chứ không phải tất cả loài người. ...
  • Đạo đức học Cantơ và tư tưởng văn hóa hòa bình

    29/10/2005Vũ Thị Thu LanĐạo đức học Cantơ chứa đựng những luận điểm có giá trị tiền đề cho tư tưởng văn hoá hoà bình mà nhân loại hiện đang hướng tới. Ông đã làm nổi bật tính nhân văn khi xác định "loài người như một" là đối tượng của đạo đức học và con người phải tuân thủ quy tắc ứng xử chung - "mệnh lệnh tuyệt đối". Ông còn đưa ra nguyên tắc về phẩm giá tuyệt đối của cá nhân, đề cao giá trị con người, coi con người là mục đích của đạo đức và góp phần thức tỉnh sự tự ý thức của con người. Đạo đức học Cantơ kêu gọi nhân loại hướng đến những giá trị đạo đức chung, hướng tới nền hoà bình vĩnh cửu. Sự công hiến to lớn đó, ông đã trở thành người đặt nền móng cho nền văn hoá hoà bình - văn hoá của hiện tại và tương lai...