Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936)

04:13 CH @ Thứ Năm - 16 Tháng Bảy, 2009


NGUYỄN VĂN VĨNH
(1882 - 1936)

Nguyễn Văn Vĩnh nổi bật với quan điểm duy tân cấp tiến. Thuộc nhóm người tân học, làm việc với người Pháp, và được sang Pháp công tác, sớm nhận thấy sự văn minh tiến bộ tây phương, ông hiểu rằng muốn canh tân đất nước, việc giáo dục quần chúng là điều kiện quan trọng trước nhất. Để giáo dục quần chúng, sự cần thiết là phải nhờ vào chữ quốc ngữ, báo chí, và ấn phẩm. Những yếu tố này ở nước ta lúc bấy giờ chưa có...

1. Tiểu sử

- Nguyễn Văn Vĩnh có biệt hiệu là Tân Nam Tử, sinh ngày 15/6/1882 tại làng Phượng Vũ, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân rất nghèo, không phải từ một gia đình "danh gia vọng tộc", "khoa bảng".
- Ông bước vào đời từ một cậu bé 8 tuổi, nghèo khó, kéo quạt ở trường hậu bổ đình Yên Phụ. Năm 12 tuổi, nhờ học mót mà ông thi đỗ khóa học chính thức và được hiệu trưởng cho phép học lại khóa học thông ngôn do quá nhỏ tuổi.
- Năm 1898, ở tuổi 16, ông tốt nghiệp trường thông ngôn Hà Nội (Collège des Interprêtes) và được bổ nhiệm làm thư ký tòa sứ Lào Kay. Sau đó, ông được thuyên chuyển qua Hải Phòng, Bắc Ninh, và Hà Nội. Sau 2 năm học thông ngôn, ông đọc tất cả những gì rơi vào tay mình với một tinh thần say mê văn hóa, văn học

- Năm 1906, ông được cử sang Pháp tham dự hội chợ đấu xảo (Foir d'exposition), tại Marseille. Sau khi trở về nước, ông từ chức thư ký tòa sứ, để làm nghề văn, làm báo, và hoạt động chính trị.
-
Khởi đầu, vào ngày 20/3/1907, làm chủ bút tờ Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo.
- Năm
1908-1909: ông chủ trương tờ Notre Journal.
- Năm 1910, ông ra tờ Notre Revue được 12 số báo. Cùng năm đó ông làm chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn ở Sài Gòn.
- Năm 1913, ông trở về Hà Nội, làm chủ bút tờ Đông Dương Tạp Chí.
- Đến năm 1915, kiêm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn. Cả ba tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí, và Trung Bắc Tân Văn đều do ông Schneider, người Pháp sáng lập.
-
Năm 1919, Đông Dương Tạp Chí đổi làm học báo, ông kiêm chức chủ nhiệm. Đồng thời, ông mua lại tờ Trung Bắc Tân Văn ra mắt hàng ngày.
-
Năm 1920, ông là người Việt Nam đầu tiên dựng sân khấu kịch nói tại Nhà hát lớn để trình diễn các vở hài kịch của Molière như: Trưởng giả học làm sang, Người biển lận...
-
Năm 1924, cùng với những người Pháp dựng bộ phim truyện đầu tiên trong điện ảnh Việt Nam (phim câm) được quay tại cảnh quan Chùa Láng - Hà Nội.
-
Năm 1927, ông cùng người Pháp Vayrac thành lập tủ sách Âu Tây Tư Tưởng (La pensée de l'Occident) để xuất bản các sách do ông dịch thuật.
- Năm
1931-1934: ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Annam Nouveau.Ngoài ra, ông còn là hội viên hăng say hoạt động cho hai học hội Trí Tri, và Khai Trí Tiến Đức.

Về hoạt động chính trị, từ 1908, ông là hội viên Hội Đồng Thành Phố Hà Nội.
- Từ 1913, trong nhiều khóa liên tiếp, ông được tín nhiệm làm hội viên Hội Đồng Tư Vấn Bắc Kỳ (tức Viện Dân Biểu thời đó) và có chân trong Đại Hội Nghị Kinh Tài Đông Dương, một cơ quan tư vấn tối cao của chính phủ Đông Pháp. Ngoài ra, ông còn là hội viên của hai Hội Nhân Quyền Quốc Tế tại Việt Nam (Ligne des droits de l'homme) và Hội Tam Điểm Quốc Tế (Franc Maconnerie).
-
Vào năm 1934-1935, lúc kinh tế suy thoái, và tài chính ấn quán bị thua lỗ, ông chuyển hướng, và hợp tác với một người bạnPháp Clémenti sang Lào để tuyển công nhân khai thác mỏ tìm vàng;. Phóng sự "Một tháng với những kẻ tìm vàng" là tác phẩm cuối đời của ông. Vì hành trình gian khó vất vả nơi đất khách quê người, ông lâm bệnh kiết kỵ và mất vào ngày 02/5/1936, gần Tchépone, Lào trên đường đưa ông về quê nhà. Một tuần sau, đám tang của ông được tổ chức tại Hà Nội với những người đưa tiễn "dài hàng cây số".

2. Sự nghiệp:

Ông có thiện chí muốn xây dựng một nền quốc văn vững chắc cho dân Việt. Cho nên, ông đã nỗ lực đặt hết tâm trí vào công việc biên khảo, trước tác, ký sự, và dịch thuật.

Về Trước Tác, Biên Khảo và Ký Sự:

Ông đã viết những bài luận thuyết và ký sự đăng trên báo chí, có tính chất giáo dục và chính trị, với ước vọng cải thiện lối sống và tập quán hủ lậu của dân Việt, để xây dựng một xã hội công bằng cho dân chúng. Các bài luận thuyết của ông trên báo Đông Dương Tạp Chí như sau:

Xét Tật Mình (Số 6 ĐDTC)
Phận Làm Dân (Số 48, ĐDTC)
Chỉnh Đốn Lại Cách Cai Trị Dân Xã (Số 61, ĐDTC)
Nhời Đàn Bà (Số 5, ĐDTC).
Hương Sơn Hành Trình (Số 41 45, ĐDTC).

Về Dịch Thuật:

* Những tác phẩm chữ Việt được dịch ra Pháp văn như:

Kim Vân Kiều Tân Diễn (Số 18, ĐDTC).
Xích Bích và Hậu Xích Bích (bộ mới số 66 68, ĐDTC).

* Những tác phẩm chữ Pháp được dịch ra Việt Văn như:

  • Văn Luận Thuyết: Luận Lý Học (từ số 15, ĐDTC), Triết Học Yếu Lược (từ số 28, ĐDTC).
  • Văn Ngụ Ngôn: Thơ Ngụ Ngôn của La Fontaine (1915).
  • Văn Truyện Ký:

Truyện Trẻ Con (Contes de Perrault),
Chuyện Các Bậc Danh Nhân Hy Lạp của Plutarque (Les vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome),
Sử Ký Thanh Hoa của Vayrac (Le parfum des humanités).

  • Tiểu Thuyết:

Truyện Gil Blas de Santillane của Lesage
Tục Ca Lệcủa Lesage
Truyện Mai Nương Lệ Cốt của Abbé Prévost (Manon Lescaut),
Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủcủa Alexandre Dumas (Les Troix Mousquetaires)
Những kẻ khốn nạncủa Victor Hugo (Les miscrables)
Truyện Miếng Da Lừacủa Honoré de Balzac (La peau de chagrin)
Đàn Cừu Của Chàng Panurge của Emile Vayrac
Rabelais của Emile Vayrac (Notice sur Rabelais)
Tê-Lê-Mác Phiêu Lưu Ký của Fénélon (Les aventures de Télémaque),
Qui-li-ve Du Kýcủa J. Swift (Les voyages de Gulliver).

  • Hài Kịch: Tác giả Molière:

Trưởng Giả Học Làm Sang (Le Bourgeois Gentilhomme)
Người Biển Lận (L'avare)
Giả Đạo Đức (Tartuffe)
Bệnh Tưởng (Le Malade Imaginaire).

3. Đánh giá về học giả Nguyễn Văn Vĩnh:

Nếu đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh mà chỉ dừng lại ở việc cụ là thủy tổ của làng báo tiếng Việt, là người có công phát triển chữ quốc ngữ và là nhà dịch thuật xuất sắc thì chưa đầy đủ và thỏa đáng. Điều xứng đáng hơn cũng là đóng góp lớn nhất ở cụ chính là về tư tưởng. Đó là một trong những nhà tư tưởng dân chủ đầu tiên của Việt Nam mang tính khai sáng.

Cụ cũng là người biết dùng văn học và văn hóa để thấm sâu vào lòng người, truyền bá những tư tưởng tiến bộ, vượt thời đại. Với người chủ soái của nền văn hóa sử dụng chữ quốc ngữ này, tiếc rằng, đã có những giai đoạn lịch sử bị nhìn nhận sai lệch... Với người làm sử chúng tôi, có những điều không phải lúc nào cũng được nói ra, nhưng đã nói ra thì không được nói sai sự thật

GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Sử học VN

Ông là người học rộng, biết nhiều, lại có lịch duyệt, thiệp liệp tư tưởng học thuật của Âu tây, nhưng cũng am hiểu tín ngưỡng phong tục của dân ta, muốn đem những quan niệm phương pháp mới nào hợp thời để truyền bá trong dân chúng, nhưng cũng chịu khó tìm tòi và biểu lộ cái dở, cái xấu cũng như cái hay, cái ý nghĩa của các chế độ, tục lệ xưa của các mối mê tín, dị đoan cũ; vì thế, có người hiểu lầm mà trách ông muốn đem những điều tin nhảm, những cái hủ tục mà tán dương và khôi phục lại (như trong việc in cuốn Niên lịch thông thư trong có biên chép ngày tốt ngày xấu và kê cứu các thuật bói toán, lý số).

Văn ông bình thường giản dị, có tính cách phổ thông, tuy có châm chước theo cú pháp của văn tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta. Ông lại chịu khó moi móc ra trong kho thành ngữ, tục ngữ của ta những từ ngữ có màu mè để diễn đạt các ý tưởng (cả những ý tưởng mới của Âu tây) thành ra đọc văn dịch của ông tưởng chừng như đọc văn nguyên tác bằng tiếng Nam vậy. Kể về văn dịch tiểu thuyết thì thực ông là người có biệt tài, ít kẻ sánh kịp vậy.

Theo Giáo sư Dương Quảng Hàm, “Việt Nam Văn Học Sử Yếu”

Ông là người có công lớn và đầu tiên trong việc xây dựng nền văn chương Việt nam bằng chữ quốc ngữ. Với thái độ sống và thế đứng trong xã hội, ông thu hút được người đồng thế hệ cùng đem văn tài ra cộng tác với ông trong việc xây dựng nầy. Từ người nhỏ tuổi nhất như Phạm Quỳnh 21 tuổi, Tản Đà 25, đến người nhiều tuổi như Phan Kế Bính 38, Nguyễn Hữu Tiến 39, và người ngang tuổi như Trần Trọng Kim 31, tất cả đều thấy cái thú chơi chữ và thí nghiệm về văn chương, để dần dần vững tâm dám nghĩ đến những công trình biên khảo hay sáng tác lớn.

Trong khi ông sửa soạn người cho bước tiến tương lai như Phạm Quỳnh, Tản Đà, thì bằng các thể văn, các bài viết, ông cũng tạo ra những mẫu mực văn chương cho đời sau học theo, cùng nương theo đấy mà tiến hơn nữa”.

Lê Văn Siêu, “Văn Học Sử Thời Kháng Pháp 1858 1945”

Nguyễn Văn Vĩnh qua cái nhìn hậu thế

Mỗi người có cách yêu nước riêng
Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên
Chân dung thật của học giả Nguyễn Văn Vĩnh

Chí tiên phong
Cách đây một thế kỷ, những người khổng lồ

Sự ra đời của chữ Quốc ngữ và cái chết của ông Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh, người đi tìm giá trị văn hoá

Học giả Nguyễn Văn Vĩnh: Ta tắm ao ta
Về một bài thơ bây giờ mới được biết đến: Cụ Quỳnh khóc cụ Vĩnh

Trích đăng tác phẩm của Nguyễn Văn Vĩnh

Ngẫm nghĩ về thói hư tật xấu của người mình

Tật huyền hồ lý tưởng
Gì cũng cười
Học đòi làm dáng, sùng ngoại quá nặng, ...
Mưu lợi trên dân kém cỏi, Tuỳ tiện trong quản lý
Cần mẫn bất đắc dĩ, không thiết gì, trống rỗng
Gì cũng cười, Nói năng lộn xộn, Học hời hợt
Thô tục, vô duyên, luộm thuộm
Học không biết cách, giỏi bắt chước
Thị hiếu tầm thường, Thời gian phí phạm
Quá viển vông, tầm thường hóa, quá tin sách, tín ngưỡng nông
Huyền hồ, than vãn, học để thi
Thủ cựu, ngại thay đổi
Tầm nhìn hạn hẹp, cam chịu, lẫn lộn, kìm hãm nhau
Ma to dỗ nhớnThiếu gạo ăn thừa giấy đốtThói tệ

Luận về văn hoá - xã hội

Phố cổ Hà Nội
Truyện ăn mày
Duy tân
Tiếng An-nam
Hội dịch sách
Chữ Quốc ngữ

Bản dịch ngụ ngôn La-phông-ten

Ngụ ngôn La Fontaine Phần 1

Ngụ ngôn La Fontaine Phần 2

Ngụ ngôn La Fontaine Phần 3

Đông Dương tạp chí (1913-1916)

Vào đầu thế kỷ 20, tờ Đông Dương tạp chí do Schneider sáng lập, tại Hà Nội, với một số văn sĩ, ký giả Việt Nam dưới quyền quản lý chủ bút của Nguyễn Văn Vĩnh. Đông Dương tạp chí là tờ tuần báo xuất bản vào ngày thứ năm. Số đầu tiên ra ngày 15-05-1913, xuất bản được bốn năm, đình bản vào 1916.

Ban biên tập gồm có:

Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh (1882 1936),
Thượng Chi Phạm Quỳnh (1892 1945)
Bưu Văn Phan Kế Bính (1875 1921)
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889 1939)
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến
Nguyễn Bá Trác
Thân Trọng Huề (1869 1925)
Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố
Nguyễn Đỗ Mục
Lệ Thần Trần Trọng Kim (1882 1953)
Phạm Duy Tốn (1883 1924).

Mục Đích của Đông Dương tạp chí:

1 Chính Trị:

Tuyên truyền chính sách cai trị của người Pháp, vì lợi ích cho đời sống người dân và đất nước Việt Nam và khuyến dụ người dân Việt hợp tác với chính quyền Pháp, không theo nhóm bạo động chống Pháp.

2 Văn Tự:

Tích cực phổ biến cổ động cho chữ quốc ngữ, để mọi giới người Việt nhận thức được sự tiện lợi, và dễ học của một thứ chữ mới. Luyện tập theo lối văn xuôi, gãy gọn, có tính cách bình dị, để xây dựng một nền quốc văn mới, giúp cho việc diễn đạt tư tưởng trong lối phê bình văn học và nghị luận.

3 Học Thuật Tư Tưởng Tây Phương:

Truyền bá giáo dục bách khoa phổ thông về học thuật, tư tưởng, và văn minh tây phương cho mọi người Việt, mà người học không cần phải đi đến trường (bằng cách dịch thuật từ các sách Pháp và Hán văn ra chữ Việt, đồng thời giảng giải về đủ mọi vấn đề trong đời sống xã hội).

Ta có thể nói Đông Dương Tạp Chí là một tờ báo xuất bản trước nhất chuyên về việc dịch thuật Hán văn và Pháp văn, nhằm mục đích nâng cao dân trí. Bộ môn tiểu thuyết thời bấy giờ được nhiều người ưa chuộng hơn những vấn đề có tính cách triết lý, khoa học. Ngoài phần dịch thuật, nhóm Đông Dương với những cây bút giá trị của các học giả đã sáng tác nhiều loạt bài khơi động niềm rung cảm trong quảng đại quần chúng với lối văn bình dị. Nội dung của những bài luận thuyết và ký sự nhằm vào việc giáo dục giới thanh niên nam nữ trên đường tiến hóa, xây dựng một tương lai rực rỡ sau nầy, mà chúng ta có dịp thưởng thức những tài nghệ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn”.

Giáo Sư Trịnh Vân Thanh, tác giả Danh Nhân Từ Điển, 1966

Người Tây học có thể lấy trong đó, (ĐDTC) những tinh hoa của nền cổ học Trung Hoa mà nước ta đã chịu ảnh hưởng lâu đời; người Hán học cũng có thể lấy trong đó những tư tưởng mà người Việt ta cần phải biết rõ mà thâu thái. Những bài bình luận, những bài tham khảo về Đông phương và về Tây phương đăng liên tiếp trong Đông Dương Tạp Chí, ngày nay giở đến, người ta vẫn còn thấy là những bài có thể dựng thành một bộ sách biên tập rất vững vàng và có thể giúp ích cho nền văn học Việt Nam hiện đại và tương lai”.

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, “Nhà Văn Hiện Đại” tập I

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc: